Bạn chú ý trang wap truyện lâu năm có uy tín chỉ có 1 địa chỉ là http://thanhnienviet.hexat.com
Chương 5
Đêm ấy xe ngựa trở lại. Nàng thức giấc lúc hai giờ sáng. Nhìn ra cửa sổ, cô gái thấy chỉ có hai xe thôi. Cỡ sáu người tất cả. Những xe ngựa có vẻ kỳ bí và giống như xe tang. Bóng người di động trên sân lặng lẽ. Mary tưởng như đó là hình ảnh của một ảo mộng.
Nhưng đó là sự thật, các xe đều trống rỗng, hàng hóa từ trong phòng được khuân ra, chất ngập xe.
Tại Helford, ít ai nói tới chuyện buôn lậu, mà có nói đến thì bằng nháy mắt và nụ cười khoan thứ, y như những chai rượu lậu chỉ là một xa xí phẩm vô hại chứ không phải là một tội ác đè nặng lương tâm. Đây khác hẳn: bọn bất lương đã nhúng tay vào máu người. Kẻ nào thấy lương tâm cắn rứt, thì sẽ lãnh một sợi dây tròng vào cổ như nàng đã thấy.
Tổ chức của Joss như một vòng xích sắt: không có khoen nào được yếu. Bỗng Mary có cảm tượng Jean đến với mục đích rõ ràng: Hắn báo trước cho anh biết xe đến đêm nay. Mary chợt giận mình quá đỗi, vậy mà nàng tưởng sẽ là bạn với Jean. Anh em họ cộng tác với nhau, rõ ràng quá. Chắc một điểm lương tâm vùng dậy, ngo ngoe trong chốc lát, xui anh ta quan tâm đến số phận Mary, khuyên nàng rời lữ quán, vì anh ta biết rõ cái gì đợi Mary.
Vậy mà cô lại vướng víu bà dì như vướng bận đứa con nhỏ còn ẵm ngửa, có bực không?
Các xe đã đầy nhóc hàng hóa, chúng lặng lẽ lần lượt rời lữ quán.
Công việc đêm nay nhanh chóng hơn lần trước. Cũng không có ai đột nhập bí mật vào như lần trước, trò chuyện cùng chủ quán...
Nhiều ngày tiếp theo, không có gì xảy ra. Những chuyến xe chạy ngang, lủi nhanh như một con bọ hung bị đuổi.
Một sáng kia trời lạnh, đá phủ ngập sân, mặt trời le lói giữa bầu trời trong sáng. Núi đá sừng sững màu xanh thẫm, các vũng lầy thường ẩm và nâu hôm nay cũng hóa trắng, lấp lánh ánh nắng chan hòa.
Gió thổi nhẹ. Mary bớt nản khi thấy mặt trời. Nàng mang áo quần đi giặt. Nước ấm và bọt xà phòng làm nàng thích thú, vừa hát vừa làm việc. Sáng nay, Joss lên ngựa ra đi.
Mỗi lần lão đi, Mary thấy nhẹ nhõm lạ. Bỗng có tiếng gõ vội vàng nơi cửa kính. Mary quay lại nhìn, dì nàng tái xanh ra hiệu cho nàng vào nhà. Mary vội chùi tay vào tập dề, chạy vào cửa sau, dì ôm lấy Mary run rẩy, lắp bắp không ra tiếng.
Mary trấn an dì:
- Có gì vậy, thưa dì? Đừng sợ, dì cứ thong thả nói... Dì ngồi xuống đi!
Nàng nói và dìu lại ghế. Dì Patience cắn môi, hất hàm chỉ ra cửa, thì thào:
- Ông Bassat đến! Ông đến với một người nữa! Chúa ơi! Ta làm sao đây, hở Mary?
Tiếng dì nghẹn trong cổ họng trong lúc tiếng gõ cửa cấp bách hơn. Dì nói như rên:
- Ông tới làm chi hở trời? Ông ấy có tới đây bao giờ đâu? Chắc ông ấy nghe chuyện gi rồi. Mary! Làm sao?
Mary suy nghĩ thật nhanh: nếu đại diện pháp luật đến thì còn đợi gì nữa? Nàng sẽ kể hết, sẽ tố cáo không sót một chi tiết nhỏ. Nhưng dì nàng run rẩy nắm chặt tay nàng, van vỉ:
- Mary! Cháu hãy cứu dì! Cháu hãy thương dì... Nếu có chuyện gì xảy ra cho anh ấy, dì chết mất! Cháu ơi! Mary...
Tiếng gõ cửa càng gấp. Mary nói:
- Dì cứ yên tâm. Ta phải mở cửa cho họ vô nhưng dì đừng kể lôi thôi chi cả. Cứ nói chú đi vắng và dì không biết gì là yên. Có cháu đứng bên dì, đừng sợ.
Mary lại mở cửa. Hai người lại đứng ở cổng. Một người to lớn cưỡi con ngựa ô tuyệt đẹp, mặc áo choàng, mũ gần kín mắt, khoảng 50. Ông quát:
- Làm gì lâu lắc vậy? Coi bộ lữ quán nầy không muốn tiếp khách hàng phải không? Chủ nhân đâu?
Dì Patience đẩy cháu tới trước. Mary điềm tĩnh:
- Ông Merlyn đi vắng. Nếu ông muốn giải khát, xin mời hai ông vào, chúng tôi xin hầu...
- Hừ! Hết chỗ rồi sao đến đây giải khát? Ta muốn gặp chủ nhân. Bà nầy là vợ Merlyn, bao giờ chồng bà về?
- Dạ thưa ngài, nhà tôi đi từ sáng sớm và không biết có về kịp tối nay không?
- Phiền chưa! Tôi muốn nói chuyện với ông ta. Nầy, bà Joss! Dù chồng bà đã lừa tôi mua được lữ quán nầy, nhưng tôi cũng không đến đây vì chuyện đó nữa. Điều tôi không dung được là đất đai quanh đây của tôi bị mang tiếng vì chuyện bất lương xảy ra khắp vùng...
- Thưa, tôi không hiểu ngài muốn nói chi? Chúng tôi sống thật yên tĩnh. Có cháu tôi đây, biết rõ...
Hai tay đan vào nhau, dì Patience nói:
- Thôi! Tôi không ngu đâu. Tôi để ý lữ quán nầy lâu rồi. Lữ quán nầy làm cho dân quanh đây đến tận bờ bể đều khiếp đảm. Chớ giở trò đóng kịch với tôi.
Tên giúp việc nắm cương ngựa cho chủ nhân bước xuống. Ông Bassat nói:
- Nhân dịp nầy, ta cần xem xét khắp nhà. Bà đừng phản đối vô ích. Ta là quan tòa, có giấy khám nhà đây.
Ông vượt qua hai người, bước vào trong. Bà dì giơ tay ngăn, nhưng cháu bà khuyên:
- Dì nên để ông ấy khám. Ngăn lại chỉ tổ ông nổi giận lên.
- Chúa ơi! – Ông Bassat kêu to – Sao mà giống nhà mồ quá! Các người làm sao nên nỗi nầy? Xưa kia lữ quán xinh xắn bao nhiêu! Bàn ghế đâu?
Ông xông vào phòng khách và trỏ những vách ẩm ướt:
- Không bao lâu nữa mái nhà sẽ đổ ập xuống cho xem! Đời tôi, tôi chưa từng thấy sự bê bối đến mức nầy. Nào! Bà đưa tôi lên lầu coi.
Mặt tái xanh, dì Patience quay về phía cầu thang mắt tìm Mary để trấn tĩnh. Mỗi góc nhà đều được ông Bassast ghé mắt nhìn, ông giở từng cái bao cũ, quan sát đống khoai tây. Miệng ông không ngớt quát tháo vì kinh tởm và giận dữ:
- Đây là lữ quán ư? Không có lấy một cái giường? Mọt ăn từ trên xuống dưới, bẩn thỉu hôi hám... Bà hóa câm rồi sao, bà Merlyn?
Dì Patience chỉ lắc đầu, ông Bassat quay sang cô gái:
- Vậy còn cô? Cô có gì nói không?
- Thưa, tôi mới đến đây, mẹ tôi mất nên tôi đến ở với dì tôi. Dì tôi không được mạnh trong mình, thần kinh yếu...
- Sống ở đây thì thần kinh yếu là phải. Nào, cô dẫn tôi đến căn phòng kín mịt dưới kia xem!
Dì Patience nhìn Mary trân trối. Mary gượng làm gan:
- Thưa, ông muốn nói căn phòng làm kho phải không ạ? Chú tôi đã khóa lại trước khi đi, và tôi không biết chìa khóa ông ấy để đâu hay mang theo.
- Vậy thì hỏi coi bà ấy có cất hay không?
Dì Patience lắc đầu lặng lẽ.
- Được! Không sao! Ta đập gãy cửa mà vào!
Nói xong, ông ra sân gọi người giúp việc. Mary nắm tay dì thật chặt:
- Dì đừng run, người ta biết. Cứ phớt tỉnh. May ra...
Gã người làm cầm thanh sắt lăm lăm trong tay. Gã có vẻ hài lòng vì công tác chủ giao phó. Mary hẳn sung sướng nếu không có dì bên cạnh. Lần đầu, nàng được ghé mắt vào căn phòng bí mật. Nhưng nếu họ khám phá ra cái gì thì hai dì cháu sẽ liên lụy, làm sao chứng minh là mình vô tội? Ai tin được nàng, khi dì nàng mù quáng bênh vực kẻ bất lương? Nàng bối rối đứng nhìn thanh sắt đập đùng đùng vào then cửa, tiếng động vang lên chát chúa. Khá lâu cửa mới gãy nghe răng rắc và bật ra. Dì nàng kêu lên trong lúc ông Bassat đẩy bà qua một bên, lấy lối đi vào. Richards vuốt mồ hôi bò dài xuống mặt.
Căn phòng tràn bóng tối, mấy chồng bao sắp dọc theo cửa sổ đóng kín. Ông tòa hét:
- Đem cho ta mẩu nến coi! Y như đáy giếng...
Richards rút trong túi mẩu nến bật diêm đốt lên trao cho chủ, ông cầm giơ cao lên bước tới.
Ông soi vào từng góc, trong lúc tất cả lặng im. Ông tỏ vẻ tức tối vì thất vọng:
- Lạ thật! Không có gì cả!
Trừ chồng bao trong gốc, phòng trống trơn. Bụi và mạng nhện chen nhau trải khắp phòng. Không bàn, không ghế, không tủ giường chi hết. Ống khói cũng bịt kín mít. Trên chồng bao, có sợi dây thừng.
- Được! Lần nầy tôi thua lão Merlyn! Nhưng có một ngày, hắn sẽ đền tội xứng đáng!
Ông quay ra. Gã Richards dắt ngựa lại cho chủ. Ông lại hỏi cô gái:
- Nầy, cô nên nghe tôi, dì cô chắc câm và không còn trí nhớ. Cô hiểu tiếng Anh chứ? Đừng giả vờ không biết gì cả về hành động cũng Merlyn. Hãy cho tôi biết có ai đến đây, ngày hoặc đêm?
Mary nhìn thẳng vào mắt nguời hỏi (lần thứ nhất vì dì nàng, nàng nói dối trơn tru):
- Quả thật chưa bao giờ tôi thấy ai đến, ngày cũng như đêm. Vả lại tôi ngủ say quá, vì vất vả cả ngày.
- Cô biết vì sao phòng kia kín mít? Cô đã vào lần nào chưa?
- Dạ chưa và tôi không hiểu ý chủ nhân nổi, ông là một người kỳ lạ.
- Đúng, kỳ lạ lắm: lữ quán mà không tiếp khách... Kỳ lại đến nỗi dân quanh đây chỉ có thể yên giấc khi Merlyn bị treo cổ như cha hắn trước kia. Cô nói lại với hắn khi hắn trở về, nói y như tôi nói, nghe?
- Thưa ông, tôi sẽ nói đúng như ông dặn.
- Nầy, cô không ngán phải sống với một người khùng như bà Merlyn ư?
- Thưa ông, đó là em ruột mẹ tôi...
- Cô thông minh, nhanh trí lắm. Nhưng tôi không ao ước làm cha mẹ cô. Thà tôi thấy con tôi nằm dưới đất còn hơn để sống trong lữ quán Giao Mai với kẻ bất lương. À, quên, (ông đã bước ra rồi lại quay vào) cô có thấy Jean Merlyn, em ruột chủ quán không?
- Thưa ông, chưa. Tôi chưa hề nghe đến tên nầy.
- Thật ư? Tốt lắm. Thôi, chào cô!
Đợi cho người ngựa khuất sau đồi, Mary mới nói với dì, giọng hằn học trong lúc bà ngồi bệt xuống thở hổn hển:
- Thôi, hết nguy hiểm rồi. Dì nên bình tĩnh lại. Dì và chú đã qua mặt ông tòa mà khỏi bóp kèn... Tài quá!
Nàng rót nước uống một hơi, mất hết cả dịu dàng, kiên nhẫn. Nàng đã nói dối để cứu kẻ ác, trong lúc nàng chỉ muốn khai toạc hết sự thật. Nàng đã thấy sợi dây, nàng muốn Joss bị treo cổ bằng chính sợi dây hắn dùng treo cổ kẻ lạ trong đêm... Nàng muốn... nhưng vì dì nàng, nàng đã không dám tố cáo kẻ bất lương. Thật ghê tởm: Mary là đồng lõa của quân gian? Uống đến cốc nước thứ hai, Mary lại nhớ mình còn nói dối để cứu Jean, tên trộm ngựa. Nhục nhã, xấu hổ biết ngần nào?
***
Trưa đó, Joss trở về, được vợ đón ở cửa bằng một tràng dài, tiếng nọ dính tiếng kia. Mary ngồi yên ngoài vườn. Nàng thấy chẳng việc gì phải chen vô.
Thỉnh thoảng, Joss gặng hỏi lại đôi câu, giọng bẳn gắt. Rồi ông ta đến cửa sổ, vẫy nàng, mặt cau có:
- Về đây! Kể đầu đuôi nghe coi. Một con vẹt còn nói rõ hơn dì cô...
Mary bình tĩnh kể lại câu chuyện, trừ chuyện ông tòa hỏi Jean. Sau cùng Mary nhắc lại lời ông tòa dặn nàng. Joss im lặng nghe, chờ Mary dứt lời, lão đá cái ghế ra tận cửa, gầm to:
- Đồ hèn! Nó làm gì có quyền xét nhà? Trát tòa gì! Bịa! Vậy mà hai con ngu cũng để nó vô. Sáng nay mà có tao coi, nó sẽ về North Hill mà ngay vợ nó cũng không nhận ra và nó sẽ không còn ra người nữa. Đồ chó má! Nó có quyền sinh sát với ai kìa, chớ tao thì...còn lâu. Rồi nó sẽ van lạy tao cho mà coi. Chà! Hai con ngu sợ dữ, há? Có ngày tao đốt nhà nó cho coi...
Joss la to đến nỗi Mary tưởng tai mình điếc luôn. Nhưng cô gái không sợ tí ti nào. Cô biết đó là một cách...để đỡ tức, không có gì nguy hiểm. (Chỉ khi nào con người nầy thì thầm mới đáng gớm.) Có thể lão đang sợ cũng nên? Mary lấy làm thú vị và nghĩ đến điều nầy.
- Lấy gì ăn coi! Ta còn phải đi có việc đây. Patience! Câm họng lại, bà khóc làm ta điên thêm. Mary cô khá lắm. Ta biết ơn cô đó!
- Bộ chú tưởng tôi làm vậy vì chú chắc?
Mary nhìn thẳng vào Joss, hỏi.
- Vì ai thì vì, ta không cần biết. Cắt miếng bánh coi! Đừng nói nhiều.
Xong bữa ăn, Joss ra chuồng ngựa. Mary tưởng lão cỡi ngựa đi, nhưng lão lại thôi, ra bếp, leo rào và đi bộ, băng qua đồng hoang phía sau, tiến về phía núi đá Telbo-Hough. Nàng do dự, không biết có nên thực hiện điều dự tính chăng?
Sau cùng, Mary cởi tạp dề, khoác khăn len, chạy theo Joss. Đến đỉnh đồi cô phải nấp sau tảng đá, chờ Joss đi khuất thật xa mới dám theo sau. Cô rẽ cỏ dại, bước tràn trên đá sỏi. Nàng nghi là sự có mặt ông tòa bất ngờ làm cho Joss thay đổi chương trình. Bây giờ đang xế trưa, rất dễ cho nàng theo dõi lão. Đất hơi khô, đá đông cứng, nhưng Mary đã có kinh nghiệm qua những bận đi dạo trước.
Sau vài dặm, cuộc theo dõi bắt đầu khó hơn: nàng phải giữ khoảng cách khá xa mà Joss thì lại đi nhanh. Khỏi núi đá Codda, Merlyn rẽ qua hướng đông, lão chỉ là một chấm đen nhỏ giữa đồng hoang bao la nâu sẫm, dù lão vốn cao lớn.
Chốc chốc, Mary phải dừng chân, lấy tay gạt mồ hôi trán. Trót theo khá xa, Mary không thể bỏ cuộc, ít ra phải khám phá được điều gì mới bỏ công chứ ?
Nàng dẫm trên mặt đất nâu và đầy sình lầy, nước ngấm vào giầy vừa lạnh vừa nặng. Váy nàng bị rách lai vài chỗ và cũng ngấm nước. Đã qua đoạn đường nguy hiểm và phía trước, Joss mờ mờ qua đám cỏ gai rồi khuất sau tảng đá đen ngòm, mất hút.
Giữa bụi rậm và bùn, Mary mất dấu Joss, phần sợ sa lầy nàng phải vòng lên trên và trượt chân mấy bận. Càng lúc đá lởm chởm thêm. Vài con dê rừng nghe tiếng động thò đầu nhìn Mary. Mặt trời núp sau những đám mây từ hướng tây tụ lại. Đồng hoang đổi màu. Im lặng một cách dễ sợ. Khi Mary lên đến ngọn núi, xung quanh toàn màu xám. Từ các vũng bùn, những làn hơi trắng mờ nhẹ bay lên.
Trời như sắp tối. Joss biến mất tăm. Mary tuyệt vọng. Đành quay về thôi, nếu chần chờ, đêm nay nàng sẽ lạc giữa núi đá hay đồng hoang mất. Quả mình ngu - Mary thầm nghĩ. Trời tháng chạp mau tối, hoàng hôn trên đồng rất ngắn, đêm xuống mau không có giai đoạn chuyển tiếp. Mà sương mù càng nguy hiểm: y như một hàng rào trắng dầy, che phủ mặt, cách năm tấc, có khi không thấy chi hết.
Mary chạy bổ xuống núi, bóng tối như đuổi gấp sau lưng. Ngay dưới chân nàng là nguồn sông Fowey. Phải tránh nơi đó, vì mặt đất quanh đó rất dễ lún sâu.
Vòng phía trái, Mary thận trọng mỗi bước chân. Khi cô xuống đến đồng bằng, bỏ sau lưng ngọn Brow Willy uy nghi, cô độc thì sương mù và bóng đêm đã ngự trị khắp nơi, làm nàng không sao tìm ra phương hướng.
Nàng cố trấn tĩnh tìm lối về nhà. Quấn chặt khăn quàng và kéo váy lên cao Mary bước nhanh. Bỗng nàng bị con suối chắn ngang, lúc đi đâu có suối? Nàng biết mình lạc đường rồi nhưng vẫn can đảm lội qua, nước lên tới gối. Nàng cho là mình rất may, vì suối không sâu hơn. Mặt đất cao dần; Mary yên lòng bước tới...
Đường như dài bất tận, dẫn đến một ngã rẽ về phía phải. Cỏ mọc um tùm chứng tỏ ít người qua lại nhưng cũng có vết xe ngựa.
Bớt lo lắng, nàng mới thấy mệt lử, cô gái lầm lũi bước, tim đập rộn ràng, hơi thở hổn hển. Nàng nôn nả mong thấy ống khói của lữ quán Giao Mai, như mong gặp bạn thân, nhưng một con đường khác nữa băng ngang giữa lối đi và nàng phân vân không biết nên theo lối nào. Cùng một lúc, có vó ngựa lại gần. Mary đứng lại giữa đường, chờ đợi. Thoáng chốc, bóng ngựa rõ dần, có người trên lưng. Người cỡi ngựa có vẻ sợ khi thấy Mary kêu lên:
- Ai đó? Có người phải không?
Rồi nhận ra Mary, ông ta kinh ngạc, hỏi:
- Một phụ nữ? Trời ơi! Bà đi đâu vậy?
Mary nắm cương ngựa:
- Xin ông chỉ giúp đường về, tôi đi lạc...
- Nhưng cô ở đâu? Tôi sẽ giúp cô.
Giọng ông ta chậm rãi, dịu dàng, Mary đoán là một người có thế lực.
- Thưa ông, tôi ở lữ quán Giao Mai...
Lỡ lời Mary chợt hối. Nghe tiếng đó, chắc ông giục ngựa dông thẳng mất? Người kia im lặng. Mary càng hoảng. Nhưng ông ta lại cất giọng dịu dàng, không thay đổi:
- Vậy thì cô đang cách đó rất xa. Hiện đây là sườn đồi Hendra...
Ông nhìn chăm chăm cô gái, tiếp:
- Cô kiệt sức rồi. Làm sao đi nổi? Vả tôi cũng không nỡ bỏ cô ở đây một mình. Đây không xa làng mấy. Hãy theo tôi, lên ngựa. Đây! Tôi đỡ cô lên!
Mary tuân lời người lạ.
- Hãy về nhà tôi, sưởi ấm và làm khô giầy áo, ăn chút gì đỡ lòng rồi tôi đưa cô về lữ quán.
Giọng ông ta âu yếm nhưng trang nghiêm, Mary muốn quên hết, tuân theo để được nghỉ ngơi giây lát. Nàng cho là may mắn nàng đã gặp người khả kính. Khi ông ngước mắt nhìn lên, Mary thấy rõ mặt ông ta: đôi mắt lạ lùng, trong như thủy tinh, gần trắng nhợt. Mary cảm thấy ông ta soi thấu tâm can mình. Tóc ông ta cũng trắng toát. Kỳ quá: ông ta đã già đâu? Khuôn mặt, giọng nói đều chứng tỏ ông ta còn trẻ. Nàng bối rối trong một thoáng khi nhận ra điều nầy: ông ta bị chứng bạch tạng.
Người lạ giở mũ, nghiêng mình, tự giới thiệu:
- Mặc dù cuộc gặp gỡ bất ngờ, tôi cũng cho cô biết: tôi là Francis Davey, linh mục phó xứ Altarnun.
Chương 6
Khung cảnh trong nhà êm ả, đặc biệt làm Mary tưởng đây là một căn nhà trong truyện cổ: có hàng rào gai mà anh hùng trong truyện sẽ chặt để lấy lối đi, bên trong là vườn hoa đủ loại. Dưới khung cửa sổ, hoa mọc từng khóm và huệ trắng vươn cao, dây leo mọc phủ vách, che khuất luôn cổng ra vào và ngôi nhà như... yên ngủ từ lâu lắm.
Mary chợt mỉm cười vì tưởng tượng của mình. Nàng lại đưa tay hơ trên lò sưởi. Sự im lặng làm nàng thích thú, thấy khoẻ và hết sợ. Khác xa lữ quán Giao Mai: không nặng nề, bừa bãi, đầy đe dọa. Tủ ghế, bàn, cả những tranh treo trên vách đều tỏa ra sự ấm cúng tuy không thân mật.
Xưa kia, chắc đây đã có một cuộc sống bình thản và hạnh phúc. Giờ, những kẻ ấy đã nằm yên trong nghĩa địa, tên họ trên bia đá bị rong phủ kín và người còn lại tôn trọng họ, giữ nguyên mọi vật trong nhà?
Mary chăm chú nhìn Francis trong lúc ông ta dọn bàn ăn, rồi lại quan sát khắp phòng. Nàng không thấy vách treo tượng ảnh các vì Thánh và tượng Chúa như thông thường. Bàn làm việc bóng nhẵn, không giấy tờ chi.
Trong một góc, có một giá vẽ, trên có tấm tranh chưa hoàn thành. Bức vẽ ao bùn Dozmary. Hình như cảnh vẽ trong một ngày u ám nên trời đầy mây và nước mầu xám, không có gió. Mary không biết gì nhiều về hội họa, nhưng cô công nhận bức vẽ nầy tràn sức mạnh. Như có mưa tạt vào mặt nàng.
Linh mục để ý đến hướng nhìn cô gái, ông lại gần, úp giá vẽ xuống:
- Đừng nhìn bức nầy. Tôi vẽ vội vàng và cũng không rảnh để hoàn thành nó. Nếu như cô muốn xem tranh, sẽ có bức khá hơn. Nhưng hãy ăn đã.
Có người dọn cho ăn là một chuyện lạ với cô gái quê. Nhưng vẻ tự nhiên của linh mục làm cô yên lòng, ông nói:
- Hannah ở dưới làng. Cứ đến 4 giờ chiều là bà về. Tôi thích một mình hơn. Cũng may, bữa nay bà ấy có làm một ổ bánh táo. Hy vọng cô nuốt trôi, vì bánh bà ta làm tệ lắm kìa.
Ông pha trà và kèm cho Mary muỗng kem! Nàng vẫn còn lạ với màu tóc, đôi mắt ông. Chúng khác hẳn giọng nói. Cái áo dòng đen càng làm nổi bật chúng lên. Mary mệt và lạ, nên linh mục để nàng ăn từ từ chậm rãi. Có lúc nàng thấy như mắt ông là mắt người mù. Khi thì cái nhìn sắc lạnh nhu soi bói. Ông nói:
- Cũng may mà tôi gặp cô giữa đồng hoang. Vì công việc, đôi khi tôi phải đi xa. Bữa nay tôi đến giúp một sản phụ. Người ở đồng quê chất phác lắm. Tôi rất quí họ.
Mary không nói gì. Mary đang nhớ đến bọn người hung bạo đến lữ quán trong đêm. Linh mục hỏi:
- Cô đi đâu mà lạc vậy?
Mary nhìn linh mục, thốt nhiên nàng thấy cần giao phó mọi sự trong tay ông:
- Con có điều lo quá. Đôi khi con sợ sẽ giống dì con. Chắc cha đã nghe người ta nói đến lữ quán Giao Mai? Con ở đó một tháng mà như 20 năm! Chỉ vì dì con mà con không thể ra khỏi đó...
Linh mục nhìn nàng vẻ âu yếm và khuyến khích. Mary tuần tự kể hết mọi điều: bọn người lạ, những kiện hàng, sợi dây, cái chết của người đàn ông, ông Bassat... và dự tính của nàng.
Nhưng chợt, Mary dừng lại. Nàng có cảm tưởng như mình kể chuyện hoang đường, như linh mục cố gắng để khỏi chế giễu nàng. Ngay cả nàng, nàng cũng cảm thấy như... mình bịa chuyện. Tại sao thế? Có lẽ vì đôi mắt kỳ dị của linh mục chăng? Hay thái độ bình tĩnh kín đáo của ông khi nghe câu chuyện?
Lạ quá, ông có thể là một người 20 tuổi và cũng có thể là một cụ già 60... Ông quả là một tác phẩm độc đáo của Tạo Hóa. Trước mặt ông, Mary cảm thấy những điều nàng kể trở thành vô lý, nhưng quá muộn.
Khi cô gái kể xong, ông đứng lên, đi đi lại lại trong phòng. Tay vân vê khuy áo rồi tựa lưng vào lò sưởi nhìn nàng chăm chú. Giọng ông đều đều:
- Đừng nghĩ rằng cha không tin con. Con không có vẻ loạn trí hay bịa đặt. Song nếu ra giữa tòa, câu chuyện có vẻ huyền hoặc quá. Hơn thế, tuy luật lệ cấm buôn lậu nhưng nó lại xảy ra như cơm bữa trong vùng. Cha cũng biết ông Bassat, ông lương thiện và có thiện chí, nhưng phải thành thật mà nói: ông ta hơi ngốc. Lại huênh hoang nữa kia. Nếu mọi người biết ông vào lữ quán và ra tay không, người ta sẽ cười vào mũi ông. Có một điều con nên yên tâm: chắc từ nay Merlyn sẽ không dám làm bậy và lữ quán sẽ yên tĩnh vì sự thăm viếng của ông Bassat, cha đoán thế.
Mary phục thái độ trầm tĩnh của linh mục quá đỗi. Nàng ngỡ là ông sẽ không tin hay ngược lại, ông sẽ sợ hãi lắm. Nào ngờ ông tỉnh táo quá. Ông tiếp:
- Nếu con muốn, cha có thể đưa con đến gặp ông Bassat, để con kể lại đầu đuôi, nhưng ít ra phải bắt được Joss tại trận với tang chứng kìa. Cha không giúp con được gì, vì hiện giờ tình thế rất... tế nhị về mọi mặt. Hơn nữa, cha biết rằng con không muốn dì con ngồi tù vì tội ác của chồng, phải không?
- Thưa cha, theo ý cha, con phải làm sao?
- Nếu cha là con, cha sẽ chờ đợi. Hãy để ý chú Joss thật kỹ. Khi nào thấy xe đến, và nếu con có thể tin cha thì cho cha hay.
- Còn người bị treo cổ? Cha có nghĩ đến tìm cách đưa vụ nầy ra phát luật không? Con cảm thấy có tội vì không cứu được người lương thiện...
- Đừng thắc mắc. Con không thể làm gì được. Con có chứng kiến tận mắt ông ta bị treo cổ đâu? Con chỉ thấy khúc dây, phải không? (Mary gật đầu.) Con đừng buồn, cha phải thành thật mà nói rằng con... tưởng tượng quá nhiều. Con không đáng trách có lẽ vì không khí trong lữ quán hại tới thần kinh con. Nếu mắt con thấy ông ta bị thương hay bị treo thì lại là chuyện khác.
- Con nghe rõ ràng Merlyn đe dọa ông ta mà, thưa cha?
- Con khờ lắm. Người ta đe dọa nhau hằng ngày ấy chứ, nhưng dễ gì treo cổ được nhau? Hãy nghe cha, từ nay có gì đáng lo, báo cho cha biết. Hay con muốn cha đưa về và nói hộ vài tiếng với Joss? Cha sẽ không ngại đâu.
- Chết! Lạy cha! Ông ta sẽ giết con và cả cha nữa, chưa chừng. Ông ta hung bạo lắm, không phải như cha tưởng đâu. Cha đưa con về rồi mặc con xoay xở lấy. Cha không nên ra mặt, nguy hiểm quá!
Nói xong, nghĩ đến lúc đối diện với Merlyn, Mary thấy mệt mỏi chợt đến. Chỉ còn một điều an ủi: nàng có thể trở lại đây bất cứ giờ nào. Và chắc gì Joss trở về trước mình? Có thể, lão về và ngỡ mình đã ngủ yên? Lão có đến phòng mình làm chi đâu? Lão đã cảm ơn mình ban trưa mà! Mary vững tâm lại trong khi linh mục đi thắng ngựa. Một con ngựa khác con ngựa vừa rồi, có vẻ mạnh mẽ hơn.
Dáng bộ trầm ngâm của linh mục làm Mary tưởng như ông là một người của thế giới khác. Mary nhớ lại vị linh mục làng mình: người hiền lành, nhỏ nhắn, dễ dãi quen thuộc với nàng biết bao nhiêu!
Xe đã thắng xong. Mary lên ngồi cạnh linh mục. Nom ông như con chim khổng lồ: áo choàng rộng bay phấp phới và hai cánh tay như đôi cánh. Giọng ông mơ hồ trong gió lộng:
- Tôi yêu đồng hoang. Lần đầu tiên cô sống nơi nầy và không được yên ổn nên không hiểu tôi. Nếu cô thấy nó về đông cũng như qua hạ, cô sẽ giống tôi. Không đâu quyến rũ bằng đồng hoang. Cảnh sắc như thuộc về quá khứ. Đồng hoang được tạo dựng trước rồi mới đến rừng núi, thung lũng và biển cả. Lúc mặt trời lên, ta trèo lên đỉnh núi Roughtor lắng nghe gió thổi qua khe đá... cô sẽ hiểu...
Mary không hiểu gì cả. Nàng tự nhủ: không biết ông có giảng như thế giữa nhà thờ?
***
Joss Merlyn say tiếp năm hôm. Suốt ngày ấy qua ngày khác ông ta nằm dài mê man, trên cái giường nhỏ trong bếp. Miệng há hoác và ngáy pho pho. Tiếng ngáy vang dội khắp phòng. Năm giờ chiều hôm thứ năm ông ta tỉnh dậy, kêu khát và đòi uống... rượu chát, vừa kêu vừa khóc, như đứa trẻ. Bà vợ tức thì chạy lại, vỗ về bằng những lời dịu dàng, tay bưng ly nước dỗ chồng uống; lại sửa gối, đắp chăn. Trông bà khác hẳn, nhanh nhẹn và chu đáo quá. Merlyn nhìn quanh dáo dác, run rẩy, lầu bầu không ra tiếng. Lão để yên cho vợ lau mặt, thay ra giường, chải tóc... Chỉ mươi phút sau, ông ngủ lại, mặt bầm tím, lưỡi thè ra và lại ngáy làm Mary càng tởm.
Hai dì cháu qua ở tạm gian phòng khách đầy bụi. Lần thứ nhất, Mary thấy dì vui vẻ, tỉnh táo, nhanh nhẹn. Bà nói chuyện, có khi hát nho nhỏ nữa. Mary được biết cứ hai tháng Merlyn say bí tỉ như vậy một lần. Có khi thường hơn và lần nầy, cơn say là kết quả sự có mặt ông Bassat. Theo lời dì nàng, Merlyn trở về lúc 6 giờ chiều và đi thẳng vô quầy rượu, ở lì trong đó luôn. (May quá: lúc đó Mary đang lang thang trên đường về và lạc hướng.) Bà không biết Mary về lúc nào, và nghe Mary bảo nàng đi chơi, lạc, bà tin ngay. Bà khuyên nàng nên cẩn thận hơn, từ nay. Mary dấu tất cả mọi việc xảy ra. Và họ sống năm ngày yên tĩnh.
Thời tiết u ám nên Mary không ra khỏi cửa, nhưng đến ngày thứ sáu, khi mặt trời lên, cô gái lại tính vượt đồng hoang - dù nàng chưa quên cuộc mạo hiểm đã qua. Nhất là khi Joss tỉnh dậy la lối om sòm, khói từ bếp tràn khắp nhà và dì Patience nhanh nhẩu mang thức ăn ra thì nàng lại đâm cáu kỉnh. Mary lấy một khúc bánh mì gói vào khăn, đi ra. Lần nầy, Mary hướng về phía tây, ngọn Kilmar. Vừa đi cô gái vừa nghĩ đến Francis, suốt buổi ông toàn nghe nàng nói, nàng nhớ đến khuôn mặt ông, đôi mắt ông, bộ tóc ông... Chà! Ông có vẻ giống tiên tử Elie quá! Một người như ông, vì sao lại làm linh mục phó nhỉ? Ông có vẻ siêu phàm quá!
Vài con hải âu bay là đà trên mặt hồ. Noel sắp đến rồi. Chắc ở Helford dân chúng đang rộn rịp trang hoàng nhà cửa, cây thông, và gà ngỗng được cho ăn nhiều cho béo? Mấy hàng bánh trái và các cô gái hẳn đều ưa nhìn... Vị mục sư thì tươi tỉnh cưỡi ngựa đến Trekiwarreb cụng ly với giáo dân? Linh mục Francis cũng cầu Chúa ban phúc cho họ đạo?
Một điều chắc chắc: lữ quán Giao Mai chả có gì thay đổi? Hơn một giờ sau, Mary dừng lại trước con suối chảy ngang, khung cảnh không lạ lắm, trước mặt cô gái là núi đá phẳng lì và xanh rêu. Sau lưng, ngọn Kilmar hiện ra như bàn tay khổng lồ chĩa ngón lên trời. Mary ngắm kỹ đầm lầy Trewartha lần nữa. Về hướng đông nam, bộ mặt đồi núi rực rỡ dưới mặt trời. Suối kêu róc rách đâu đó. Đầm lầy trải dài bên trái. Gió hây hẩy thổi làm ngọn cỏ lung lay xào xạc, có đám xanh tươi, có đám vàng, nâu. Nom hiền lành nhưng vô cùng nguy hiểm, vì bên dưới lún sâu.
Mary quay lưng lại đầm và băng suối, bước lên những mô đất cao. Trời ít mây, đồng hoang trải dài như bãi cát. Mấy con ngựa chạy từ đồi cao xuống làm cho con quạ đang rỉa lông vội vút bay lên, buông mấy tiếng “quà quạ” nghe buồn bã lạ lùng. Đàn ngựa nhảy trên đá chơm chởm, đuôi phất phơ, chen lấn nhau. Hình như chúng vừa được thả ra? Mary chợt thấy cửa rào bên trái được mở rộng. Một người đàn ông đi tới, tay xách cái xô. Thấy nàng, gã đàn ông vây vẩy, gọi tên nàng. Mary không tránh kịp: đúng là em trai chủ quán. Quần áo lem luốc bùn và lông ngựa, hắn cười thật tươi:
- Cô đến tìm tôi sớm hơn tôi nghĩ. Phải biết trước, tôi đã làm bánh thết cô. Ba ngày nay tôi ăn toàn khoai tây, khỏi mất công rửa bát.
Mary chưa kịp phản ứng, anh ta đã đưa cái xô cho nàng và lội nước lùa ngựa.
- Ra khỏi đây! Tụi bây làm đục nước uống của tao. Liệu hồn!
Rồi anh ta nhặt cái xô cạnh đó vào bảo Mary trả xô nàng đang cầm, xách cả hai cái xuống suối, múc đầy nước rồi nhăn răng trắng bóng ra, cười nữa:
- Nếu không gặp tôi, cô làm gì nào?
- Tôi không có ý định tìm anh. Nếu biết, tôi đã quẹo sang hướng khác.
- Tôi không tin cô. Nhưng dù sao, cô đã đến đây là tốt rồi. Ở lại ăn trưa với tôi, nghe? Có thịt trừu.
Cả hai trở về căn nhà tranh nằm lưng chừng đồi. Từ ống khói, một làn khói mỏng thoát ra. Sau nhà, còn những mảnh ván ghép sơ để làm rào nuôi súc vật và một khoảnh đất trồng khoai tây.
- Tôi nhóm lửa rồi, giờ chỉ cần nướng thịt. Cô biết cách làm chứ?
Mary nhìn Jean từ đầu tới chân:
- Anh mời khách kiểu gì vậy?
- Tôi ít có dịp mời khách lắm. Từ lúc mẹ tôi chết, tôi sống một mình. Mời cô vô nhà!
Mary cúi xuống để chui qua cánh cửa thấp. Gian phòng nhỏ vuông bằng nửa gian bếp của dì nàng. Ống khói trong góc thật rộng. Sân nhà dơ bẩn, đầy rác: vỏ khoai ruột bánh, vài cọng rau giá và tro bếp phủ cùng khắp. Mary kinh hoảng hỏi:
- Anh không bao giờ lau nhà hở? Bếp như chuồng heo! Anh không biết xấu hổ gì hết chắc? Đưa tôi cái chổi coi. Tôi không thể ăn tại một chỗ thế nầy!
Trong nửa giờ gian bếp sạch sẽ, sân nhà ướt và bóng nhoáng, rác rến biến mất. Mary dọn quét, lau một cách hăng hái. Rồi nàng soạn trong tủ ra, lấy bát dĩa dọn bàn. Thịt trừu và khoai tây hầm trong bếp bốc mùi thơm ngát. Jean từ ngoài cửa hít hà, nói chõ vô:
- Tôi cần một người đàn bà. Cô có muốn rời Lữ quán khốn nạn đến ở với tôi không?
- Anh không đủ tiền trả công cho tôi đâu.
- Chà! Đàn bà chúa hà tiện. Họ để tiền làm chi chớ? Mẹ tôi cũng vậy. Bà dấu tiền trong vớ, tôi chưa được thấy nó màu gì. Thôi đói quá rồi... Dọn lẹ lẹ...
- Anh bất lịch sự quá! Không cám ơn đầu bếp, lấy tay đi, dĩa nóng lắm đó!
- Chắc ở Helford cô học được nhiều điều hay? Tôi cho là đàn bà mới nứt mắt chả cần học ai cũng biết làm bếp... Cho tôi ly nước đi! Cô khéo tay quá! Nào, chúng ta cùng ăn, nhé? Mời cô, cứ tự nhiên, tôi dốt phép xã giao...
Hai người bắt đầu ăn. Mary nhỏ nhẹ, còn Jean nhai ngấu nghiến và không ngớt khen ngon:
- Từ khi mẹ tôi chết, giờ mới được ăn ngon một lần; (giọng tâm sự) chúng tôi đều sinh ra ở đây, trên gác kia. Nhưng hai anh lớn lắm tôi mới ra đời. Cha tôi đi vắng luôn. Mà hễ về là kiếm chuyện đánh mẹ tôi. Một lần tôi suýt ngất vì thấy ông cầm dao ném vào mặt mẹ tôi, máu chảy ròng ròng. Tôi thấy mẹ tôi vẫn điềm nhiên dọn bữa cho ông. Bà cưng tôi nhất nhà, vì vậy hai anh hay đánh tôi, hễ mẹ tôi quay lưng là tôi bị đòn rồi...
- Mẹ anh mất bao lâu?
- Bảy năm, trong dịp Noel. Sau khi cha tôi bị treo cổ, Matt chết đuối, Joss qua Mỹ châu. Mẹ tôi trở lại đạo, đọc kinh tối ngày, làm tôi bực quá, bỏ đi. Tôi tính làm thủy thủ nhưng bể không hợp với tôi nên tôi trở về. Mẹ tôi như bộ xương. Tôi bảo: “Mẹ ăn nhiều nhiều vào” mà bà không nghe, tôi lại bỏ đi. Chiều Noel tôi trở về, đói meo, cửa thì đóng, nhà trống trơn: mẹ tôi đã chết, chôn cách đó ba tuần... Kìa, có một miếng phô-mai trong tủ đó. Cô ăn chứ? Có sâu trong đó nhưng không hại gì đâu.
Mary ngồi im. Jean nhìn chăm chú cô gái, hỏi:
- Cô làm sao vậy? Bịnh hả? Mới thấy vui vẻ đó mà.
- Tôi chả làm sao cả. Tôi nghĩ rằng khi nào không còn một người trong dòng họ Merlyn nữa là điềm tốt cho mọi người. Thà trong xứ bị bệnh dịch còn hơn có người như dòng họ nhà anh. Mấy người không nghĩ đến mẹ các người đau khổ sao?
- Mẹ tôi không kêu ca gì cả. Bà bận luôn tay có thì giờ đâu mà buồn?...
Mary đã xong bữa, nàng đứng lên, dọn bàn.
- Quên, Joss ra sao?
- Đang say, cũng như cha anh vậy mà?
- Một ngày kia rượu sẽ giết ảnh, ảnh nằm mấy ngày rồi, Mary?
- Năm.
- Thấm gì. Có khi hơn tuần lễ kia. Chừng nào ảnh tỉnh dậy, lảo đảo như đứa trẻ, rượu thặng dư đã được thải một ít, còn một ít thấm vào ảnh, lúc đó mới đáng sợ. Lúc đó ảnh nguy hiểm lắm, cô nên đề phòng...
- Ông ta còn nhiều việc phải lo. Vả, tôi cũng khá cẩn thận...
- Đừng làm vẻ bí mật. Có chuyện gì xảy ra ở Giao Mai vậy?
Mary kể lại vụ ông Bassat đến khám nhà và tất cả những lời ông hôm ấy. Jean nheo mắt:
- Sao cô lại nói dối về tôi?
- Tôi sợ dì tôi bị rắc rối. Nếu có thì giờ suy nghĩ, tôi đã nói toạc hết sự thật. Anh không có gì phải lo chứ?
- Chả có gì, trừ con ngựa đen... Tuần trước nó còn màu xám tro. Nó là ngựa quí. Cô ra xem, nhé?
Nói xong, Jean chạy vụt ra ngoài. Mary chậm rãi ra theo. Cô tưởng tượng đến một người mẹ gầy guộc, cô đơn đứng trên thềm dõi mắt theo đàn con hung tợn như quỉ dữ với tất cả trìu mến của người mẹ tận tụy suốt đời. Jean la lên:
- Đây, tôi muốn bán cho cô con ngựa nầy đây! Sao cô hà tiện quá vậy?
- Bộ anh tưởng tôi mất trí chắc? Mua về để đâu? Trong chuồng ngựa lữ quán hả? Đặng ông Bassat đến nhận ra ư? Cảm ơn anh. Tôi đã nói dối cho anh em nhà anh nhiều rồi.
Jean lộ vẻ buồn:
- Cô từ chối dịp may. Khó có con ngựa đẹp như nó. Noel tôi sẽ mang nó ra phiên chợ uổng quá !
Anh đuổi ngựa đi rồi bứt cọng cỏ cắn, mắt không rời Mary:
- Cô biết ông Bassat tìm gì trong quán không?
- Anh biết hơn tôi chứ? Anh hỏi làm gì? Lại còn vờ. Tôi không đến cho anh thẩm vấn đâu. Mình ông tòa quá đủ rồi...
- May phúc cho Joss. Ảnh đã dời đi - Giọng Jean thản nhiên - Tôi đã nói rồi mà cứ nhơn nhơn. Có ngày họ sẽ tóm cho coi.
Mary nghĩ thầm: Đừng vờ ngay thật để lừa ta. Anh em nhà anh giống nhau mà!
Jean nói tiếp:
- Bộ cô sợ tôi mách lại Joss hả? Hay là cô khờ đến nỗi không biết chút gì? Tôi không tin vậy, một đứa trẻ cũng biết sự gian ác trong lữ quán Giao Mai mà! Cô đến cả tháng rồi...
- Anh muốn gì? Tôi chỉ cần mang dì tôi ra khỏi hắc điếm nầy. Còn anh, có chết đuối trong rượu cũng không can chi đến tôi.
- Như vậy, buôn lậu không làm cô sợ? Cô làm ngơ để ảnh chất đồ lậu đầy phòng, đủ loại? Và còn nhiều tội ác, như chuyện giết người chẳng hạn?
Mary nhìn thẳng mặt Jean, anh không còn một chút gì giống Joss. Nét mặt anh già dặn, trịnh trọng, lương thiện. Jean mím môi:
- Tại sao dì cô như một bóng ma? Khi gió tây bắc thổi mạnh, cô hãy hỏi bà cho biết...
Mary bối rối. Nàng không hiểu gì cả, có thể nàng hiểu được nếu Jean không phải là em Joss. Chao ơi! Giá… Jean có vẻ bí mật, không biết có phải hắn định dọa nàng không:
- Rồi một ngày kia, anh ấy sẽ gặp tôi. Sẽ có việc đáng tiếc xảy ra...
Nói xong, Jean đứng lên, tìm ngựa. Nếu trực giác nàng không lầm, còn có bí ẩn sau chuyện buôn lậu nữa. Kẻ bị treo cổ, trước khi chết cũng có nói đến tội ác, nó là tội gì? Ghê gớm đến mức nào khiến cho một kẻ đồng lõa lại có thể từ chối, chọn cái chết hơn nhúng tay vào! Jean cũng vừa nhắc đến? Tuy không nói rõ. A! đúng vậy, thần kinh mình không yếu, mình tỉnh táo, cũng không tưởng tượng như cha phó Davey nghĩ.
Mary muốn về ngay để có thì giờ ngồi một mình suy nghĩ. Nàng từ từ đổ dốc, đến đầu rào. Jean chạy theo:
- Cô về hả? Sớm mà! Chơi một chút, tôi sẽ đưa cô về. Hay là cô sợ tôi? Cô cho là anh em tôi đêu bất lương như nhau hả? Có phải cô cho là tôi cũng nhúng tay vào máu người như Joss chứ gì?
Mary không thể nhịn cười:
- Đúng vậy. Nhưng tôi không có gì phải sợ anh. Nếu anh lương thiện hơn anh của anh, tôi có thể là bạn...
- Phải cô cũng nhận rằng tôi có vẻ lương thiện hơn anh Joss không?
- Thôi, đừng tưởng vậy. Tôi không nhận nhiếc gì hết, tôi về đây. Tối đến nơi rồi, tôi không muốn bị lạc giữa đồng như...
- Chà! Vậy ra cô bị lạc rồi?
Biết mình lỡ lời, Mary vội chữa:
- Tôi đi dạo phía tây, sương mù xuống sớm... Cũng may, một lát là tôi tìm thấy đường về.
- Đừng dại nữa nghe? Giữa đường đi Roughtor có chổ đầm lầy, có thể nhận chìm cả đàn bò trong nháy mắt. Đừng giải trí kiểu đó...
- Thì tôi có ngờ đâu, định đi loanh quanh cho giãn gân, ở nhà ngấy quá...
- Lần sau có muốn đi chơi thì đến đây. Nhưng tránh phía trái nghe? À, Noel cô muốn đi chơi không? Đi Launceston chơi.
- Anh đi hả, chi vậy?
- Ồ ! Bán ngựa chớ chi. Vả lại, tôi tưởng anh ấy sắp tỉnh lại sẽ có chuyện không hay. Nếu hai ông bà biết cô đi dạo, họ sẽ không ngạc nhiên về sự vắng mặt của cô hôm đó. Chịu không?
- Rủi họ tóm anh về vụ con ngựa ông Bassat, thì tôi sẽ ra sao? Ở tù luôn với anh hả? Ê mặt quá!
- Ai bắt tôi được? Dễ dầu gì? Hãy cứ mạo hiểm chơi! Cô nhát cáy vậy ạ? Ở Helford, con gái được bọc trong gòn hả?
Giỡn quá, mình mà bọc trong gòn? Mary đáp liều :
- Jean Merlyn! Đừng tưởng tôi sợ. Ngồi tù cũng không đáng sợ bằng sống trong lữ quán Giao Mai.
- Tốt! Vậy mới đáng là người! Tôi thắng xe để tụi mình đi, con ngựa đen cột phía sau. Quên, cô biết đường đi North Hill xuyên ngang đồng hoang không?
- Không.
- Vậy thì nghe đây: cứ đi thẳng quốc lộ có một dặm tới đỉnh đồi, trước mặt là núi đá Carey, đoạn quẹo phải và đi thẳng hoài. Tôi sẽ đón ngang đó.
- Đi lúc mấy giờ?
- Cô nên rời lữ quán cỡ 11 giờ sáng. Nhớ chưa?
- Tôi không hứa chắc. Nếu anh không thấy tôi thì thôi, nghe? Có khi, dì tôi cần tôi ở nhà.
- Tôi mong cô sẽ đi. Vui lắm.
- Chào anh !
Mary nói và nhanh nhẹn quay về. Nàng vừa đi vừa nghĩ đến bộ mặt tươi tỉnh của Jean. So với các thanh niên ở làng mình, anh ta chả có gì đặc biệt. Chỉ là tên trộm ngựa, biết chừng cũng buôn lậu, sát nhân? Nhưng Mary cóc sợ Jean. Nàng sẽ ngồi cùng xe với hắn hôm áp lễ Giáng Sinh để chứng tỏ điều nầy. Vả lại, cô cũng muốn thay đổi không khí một phen.
Mary về đến cổng trời cũng vừa tối sập. Dì nàng vẻ lo lắng, xanh xao:
- Con đi đâu vậy? Chú Joss hỏi con suốt ngày nay...
- Con đi dạo ngoài đồng. Chú hỏi con làm gì? Con tưởng không ai cần đến con. (Nàng liếc vào cái giường trống trong bếp.) Ủa, chú đâu gì? Ông mạnh rồi sao?
- Chú ngán nằm trong bếp, chú ưng nằm phòng khác hơn. Mary! Con nên làm chú vui một chút. Nên nhỏ nhẹ, đừng trái ý ổng. Khi ổng ngồi dậy được, ổng có thể... dữ tợn...
Dì Patience đã trở lại sợ hãi, lo lắng. Nom dì thật đáng thương. Mary hỏi :
- Chú muốn gặp con làm chi?
- À, chắc ổng trở chứng mà. Đừng để ý đến lời ổng trong lúc nầy. Để dì cho ổng hay cháu về rồi, nhé?
Mary rót nước uống để trấn tĩnh. Nàng xấu hổ mà thấy mình hết cái can đảm ở đồng hoang: nàng cũng lấm lét sợ sệt như dì vậy! Dì nàng trở lại, thì thầm:
- Hình như ổng ngủ rồi. Dì cháu ta đi ăn, có ba-tê cho con đó.
Mary không thấy đói chút nào, nàng cố gắng nhai mẩu bánh nhỏ rồi uống trà. Cả hai cùng im lặng. Rồi nàng châm thêm củi vào lò sưởi, khói xanh nồng làm cô cay mắt, nhưng lửa gần tàn, không đủ ấm gian phòng lạnh lẽo.
Trong hành lang đồng hồ gõ đều đều. Nàng gần nghẹn thở. Buổi tối nặng nề chậm chạp trôi qua. Hai dì cháu thu dọn về phòng mình. Nhưng rồi dì nàng đi khỏi phòng, Mary vẫn ngồi yên. Nàng mơ màng nửa thức nửa ngủ, không nhấc nổi chân.
Lửa tắt ngấm, nến cũng gần tàn... Bỗng Mary ngẩng lên vì một tiếng động khẽ, và cửa bếp hé mở: Joss bước vô. Mặt xám ngoét, mắt đỏ ngầu, ông cất giọng gắt:
- Ai đó? Làm gì đó? Để dao xuống! Nghe chưa? Tôi bảo để dao xuống!
Mary nhìn trừng trừng Joss, không nhúc nhích được nửa phân:
- Cháu đây! Chú lầm rồi không có ai đây hết, không có dao đâu...
- Ủa, Mary! Họ đi đâu hết rồi?
- Chú lầm đó, không có ai trừ cháu ở đây. Chú cần gì không?
Joss nhìn quanh phòng, thì thầm:
- Ta không sợ họ đâu. Kẻ chết làm sao hại được ta? Ta làm họ biến mất như khi ta thổi tắt ngọn nến, phải không, cháu?
Mary gật đầu, Joss kéo ghế ngồi xuống, liếm môi:
- Chỉ là cơn mơ thôi, cháu ạ ! Kỳ một cái mặt nào cũng rõ ràng hết mới là ghê... Chú khát quá, Mary! Vô lấy chai rượu cho chú đi !
Mary đón xâu chìa khóa trên tay chủ quán, nàng thầm nghĩ không biết có nên đi luôn lên phòng mình không, thì có tiếng giục giã:
- Đem chai rượu chớ không phải đi luôn, nghe?
Mary lẳng lặng vào quầy rượu, lục lấy chai Cognac và cái ly đem lại trước mặt Joss. Người đàn ông rót nửa ly rượu, uống chầm chậm và nói:
- Mary! Cháu thật tốt. Cháu thông minh, can đảm. Đáng lẽ cháu là con trai mới phải. Chú thương cháu lắm đó, nghe?
Lão cười, giọng ngớ ngẩn:
- Rượu nầy phải trả bằng vàng và máu đó. Tiền khó mà mua nổi. Vua George cũng không có thứ quí hơn. Ta tốn bao nhiêu? Không đến vài xu. Lữ quán Giao Mai nầy có rượu miễn phí. (Lão lại cười gật gù.) Đây là một trò chơi nguy hiểm nhưng hấp dẫn đối với đàn ông. Ta xuýt chết nhiều lần, nhưng dễ gì hạ nổi ta? Ta lanh quá! Trước kia, ta ở Padslow, lúc nước lớn ta đánh đắm tàu, nhưng là tàu nhỏ. Chỉ có năm người phụ ta thôi. Ít quá mà làm ăn gì? Bây giờ ta tổ chức đại qui mô à! Ta sẽ giết người nhiều lắm, nhưng trò chơi... Không! Công việc chớ, công việc nầy khác lắm. Mary! Lại gần đây! Ta tin cậy cháu, cháu không giống dì cháu. Ta hợp tác với nhau, nghe?
Joss chồm đến bất ngờ, chộp tay Mary ấn cô ngồi xuống cạnh mình:
- Chính rượu quái quỉ hại ta đó, Mary! Nếu không coi... Bình thường ta không sợ gì hết, chính ta giết người, dìm chúng xuống nước, lấy đá đập lên đầu chúng...mà ta ngủ ngon lắm, chả có băn khoăn gì hết. Đứa nào nói có lương tâm cắn rứt là nói láo, nói theo kiểu trưởng giả, tụi văn sĩ láo khoét. Lương tâm là cái gì? Hình thù nó ra sao? Bịa! Mà có cái kỳ nầy: hễ ta say thì ta thấy xác chết hồi sinh. Ý trời ôi! Đứa thì bị cá ăn mất mắt, đứa khác thì tóc vướng trong rong bể, đứa thì da mặt trắng như sáp. Có một lần, ta gặp một phụ nữ tóc xõa dài, tay bám lấy tấm ván, tay kia bế con. Thuyền ở gần đó và bể không có sóng, nhiều kẻ sống sót và cố lội vào bờ, nước cạn, biết không, Mary? - Chả là tụi ta tính lầm con nước. Bà kia cầu cứu dữ lắm nhưng ta tặng cho bả một hòn đá to vào mặt, bả ngã ngửa, buông cả tấm ván lẫn con. Đâu phải ta độc ác gì , công việc là công việc chớ. Ta phải ra tay, nếu không họ lên bờ sao? Nếu không lanh tay, họ sẽ lên bờ nhiều người lắm. Tụi ta phải ném đá, gần quá thì áp lại, bẽ gãy lọi tay chân họ, dìm họ xuống nước. Nước sâu không đầy một thước, khó lắm chớ dễ gì? Ta chu đáo lắm, phải không Mary?
Ngọn nến lung linh. Joss lại nắm tay cô gái, tay cô lạnh và mềm nhũn như bàn tay kẻ vừa tắt hơi. Lão giật mình, buông cô ra, nhìn phía khác:
- Bàn tay gì giống như...
Rồi lão im luôn. Mary ngồi chết dí, nhìn con muỗi đậu trên tay Joss, nàng chợt nhớ lại cái lần lão cắt bánh cho nàng, khéo léo, mềm mại. Nhung giờ đây, nàng tưởng tượng đến viên đá trong tay lão. Joss quay lại:
- Tiếng đồng hồ gõ mà ta tưởng tiếng chuông báo động trên bãi bể, nghe buồn quá đi! Tiếng chuông báo động trên tàu ấy mà, có lần ta muốn hét to cho át tiếng chuông cầu cứu. Chúng ta cũng vất vả lắm chớ đâu phải dễ dàng gì. Chèo thuyền dọc theo bãi, đem theo đủ thứ: gậy gộc, giẻ, dao, thừng... Cháu biết giẻ để chi không? Đặng nhét vào miệng họ, cho họ câm suốt đời mới yên tâm mình chớ chi... Còn tàu: một tiếng đánh rầm vào cồn đá, tàu rung động rồi chìm dần, chìm dần, sóng nuốt tiêu tan... Cháu đã thấy ruồi dính vào hủ mật chưa ! Người ta vướng trong tàu như vậy đó, họ bám vào tàu, mỗi lần thấy sóng to họ thét lên, nom họ như những chấm đen li ti, li ti... li ti...
Mary muốn nôn, nàng lạnh cóng. Joss chồm tới trước, gục đầu xuống ngực, miệng há to, chìm trong cơn say - hay giấc ngủ? Hai cánh tay đặt lên bàn, bàn tay chắp lại như đang cầu nguyện...
Mary se sẽ đứng lên, chỉ những sợ ông ta tỉnh dậy kéo nàng ngồi lại nghe chuyện nữa.
...............................................................
bạn đang đọc truyện tại chúc các bạn vui vẻ
....................................................................
Chương 7
Hôm áp lễ Giáng Sinh trời báo hiệu một cơn mưa sắp đến, phòng Mary ẩm ướt, nàng nghiêng mình ra cửa sổ, gió tạt vào mặt. Một giờ nữa, Jean chờ nàng ở đồng hoang, cùng đi Launceston. Nên đi không? Bốn ngày nay, Mary già đi: mắt thâm quầng, má hóp, bơ phờ; nàng ăn không được, ngủ không được. Có lúc nàng thấy mình cũng có vết nhăn ở trán, tóm lại nàng gần giống như dì! Nàng ở lì trong phòng, viện cớ bị cảm. Nàng xót thương dì quá: bà đã bị bí mật kinh hoàng nầy đè nặng bao lâu? Sau nầy, dù nàng có đưa dì đi đến đâu, bí mật nầy vẫn đeo đẳng bên dì. Trời ơi! Nàng đã biết rồi, cái duyên cớ khiến dì gần như mất trí. Dì nầy cũng mang tội ác, dì đồng lõa với chồng bằng sự im lặng của dì. Dì đã dung túng, mặc cho con quỉ dữ lộng hành.
Ba ngày trôi qua, sau cái đêm Mary nghe Joss kể lể. Nỗi kinh hãi, ghê tởm lắng dịu, nàng chỉ còn thấy mình già cỗi, mệt nhoài. Nàng hết thấy sợ Joss, chỉ khinh bỉ, chán ghét thôi. Joss và cả lũ thủ hạ đều là những con thú mang bộ mặt người. Chúng làm hại đất nước, làm nhục loài người và Mary chỉ yên tâm khi chúng bị loại trừ sạch. Tội lỗi chúng không thể nào xóa tẩy.
Nhưng còn dì Patience và Jean Merlyn? Nàng không muốn, nhưng vẫn thấy rõ Jean giống Joss. Khi anh ta quay đầu lại, Mary ngỡ như Joss 20 năm trước? Nàng hiểu vì sao dì nàng mê tên ác quỉ nầy.
Cho đến giờ, Mary chưa để ý đến một thanh niên nào. Ở Helford nàng đâu có thì giờ mơ mộng? Đi nhà thờ, vài anh cười duyên với nàng, nàng cũng dự vài cuộc cắm trại vào mùa gặt. Nhưng chả có ai làm nàng chú ý cả. Mary định sống một mình. Nàng dành tiền mua một nông trại. Rời lữ quán nầy, nàng lo cho dì một mái nhà, chăm sóc dì như mẹ ruột. Ôi, thì giờ đâu mà nghĩ đến đàn ông?
Ở Helford, Mary thấy các cô gái đi dạo với bạn trai, họ nắm tay nhau, bẽn lẽn nhưng thích thú. Đêm, họ cùng ngắm trăng, ngắm cảnh - làm y như chỉ ban đêm khung cảnh mới đẹp vậy? - Sóng bước bên nhau, vai kề vai, nom khá buồn cười. Ôi chao! Cô gái như phải tựa vào anh bạn trai mới bước nổi, còn anh chàng thì như dũng sĩ thời xưa, ôm ngang lưng cô bạn, ra vẻ chở che, bao bọc. Khi nào không có trăng, họ ngắm mặt trời lặn làm vui, hoặc ngắm sao đêm...
Rồi chuông nhà thờ rung lên dồn dập, người ta cắt bánh cưới, chú rể mặc lễ phục đứng trước nhà thờ, cô dâu bên cạnh trắng như đóa huệ, mặt cả hai rạng rỡ như mặt trăng rằm!
Ấy thế rồi, cỡ một năm, trăng sao có đẹp mười mươi, cả hai không còn ngắm nữa: anh chàng về nhà mệt nhoài vì việc ngoài đồng lại giận dữ vì món ăn cháy khét. Nàng tiên xinh đẹp thì từ trong phòng trả lời dóng một lại với chồng, mặt đỏ gay, gầy guộc, tóc hết cong mà ngay đơ! Nàng đi tới, đi lui, bế đứa con đỏ hỏn khóc như mèo và đã làm nàng mất ngủ suốt đêm!
Ngán quá! Ủa, mà sao Mary lại cứ nghĩ tới Jean? Để làm chi chớ? Anh ta còn tệ hơn trai làng mình - tuy khá kẻng trai, nhưng rốt cuộc, hắn chỉ là tên trộm ngựa!
Nếu anh ta có một nông trại, chưa chắc nàng đã lưu ý tới, huống hồ...
Tuy nhiên, nàng thấy cần gặp Jean. Anh ta phải trả lời câu hỏi của nàng. Anh ta đã thất vọng vì nàng đã biết rõ bí mật của Joss và đồng lõa, nhất là nàng có thể tố cáo họ bất cứ lúc nào. Mary rất tin cậy ở linh mục phó Davey. Đây là một Giáng Sinh đặc biệt.
Mary nhắm hướng núi đá Faucon đi tới. Nàng nhớ Noel vừa qua nàng đã quì cạnh mẹ cầu xin Chúa ban cho mẹ con nàng sức khoẻ, nghị lực, niềm tin, cho nông trại nàng phát đạt...
Giờ đây, Mary cô đơn, mất mát nhiều quá, nàng sống giữa kẻ nàng kinh tởm, thù ghét. Nàng không cầu xin gì ở Chúa, ngoài sự sáng suốt để giữ mình khỏi sa vào tội ác. Lát nữa đây, nàng sẽ đi chơi với Jean tên trộm ngựa, nhưng nàng không sợ hãi chút nào.
Từ xa chiếc xe tiến lại, có kèm hai con ngựa nhỏ phía sau. Mặt cô gái bừng nóng. Nàng muốn rứt bỏ thứ tình cảm yếu đuối mà không được. Jean huýt sáo khi đến gần nàng, tay vứt vào lòng Mary một gói giấy nhỏ:
- Chúc Mary một Giáng Sinh vui vẻ. Khăn cột tóc đó, Mary!
Mary có ý định dè dặt song vẻ thân mật, cởi mở tự nhiên của Jean làm nàng khó xử:
- Anh tử tế lắm, Jean. Nhưng tôi e anh tiêu tiền một cách vô ích...
Jean nói thẳng:
- Đến sớm nhỉ? Cô sợ tôi đi rồi phải không?
Mary leo lên xe, ngồi cạnh Jean, nắm dây cương, nàng không để ý tới lời anh, vì nàng thích thú nhớ lại lúc ở Helford đi chợ phiên. Mary buột miệng:
- Lên xe ngựa, tôi nhớ đến mẹ tôi... Mới đây mà sao như lâu quá... Trời ơi!
Jean khoanh tay, nhìn Mary cầm cương ngựa:
- Con ngựa nầy có thể vượt qua đồng hoang dù bị bịt mắt. Cứ tin ở nó, cô có thể thả dây cương ra được.
- Ủa, anh mang bán hai con chớ không chỉ một?
- Chớ sao. Tôi sẽ biếu cô một cái áo mới, nếu cô muốn. Thôi! Đừng có cái bộ khinh khỉnh như vậy. Ta là bạn mà! Ủa, nầy, sao cô có vẻ lạ vậy? Đau hả? Mấy hôm trước cô hồng hào, tươi tỉnh lắm mà?
- Từ hôm gặp anh đến giờ, tôi không ra khỏi phòng. Từ bốn hôm nay, tôi già đi. Đầu óc tôi đầy ý nghĩ đen tối.
- Chà! Tôi tin là được đến chợ với cô gái đẹp để thiên hạ lác mắt chơi. Nhưng nom cô thảm hại quá. Đừng dấu tôi, có chuyện gì vậy? Mary... Lại có ai đến lữ quán trong đêm?
- Không.
- Coi cái bộ cô cắn môi, mắt thâm quầng là biết. Hay... cô nhớ tôi? Hả?
- Đúng ! Tôi nhớ đến anh, tôi tự hỏi: Joss và Jean ai sẽ bị treo cổ trước?
- Ê đừng giỡn chớ, không chúc lành cho người ta sao? Ta có tội gì mà lãnh án đó? Anh Joss thì được. Ảnh đáng tội! Tôi can ảnh hoài không được. Tôi không bênh ảnh đâu.
Mary liếc nhìn tay Jean, ngón dài và thanh tú nhưng mạnh mẽ. Jean la lên:
- Nhìn gì kỳ vậy?
- Tay anh. Tay anh giống như tay anh của anh... Đẹp nhưng làm tôi tởm !
- Ý trời! Sao cô cứ so sánh như vậy? Nầy, nói thật đi: tại sao cô ở lì trong phòng bốn ngày nay? Con gái ưa làm bộ bí mật quá!
- Không có gì bí mật. Jean! Tôi đã biết tại sao dì tôi sống như bóng ma. Tôi biết hết rồi! Trong cơn say kẻ ác không giữ miệng...
- A! Nhà trinh thám tài ba! Cô biết gì nào?
- Đừng hòng tôi kể ra cho anh. Tôi không ngu đâu.
- Cô vẫn ngại tôi?
- Anh là em ổng. Đủ rồi. Tốn công thì ít, hưởng lợi thì nhiều. Và, Jean! Có khi nào người chết biết tố cáo chăng?
- Đành rồi. Nhưng những mảnh tàu đắm biết tố cáo : khi gió thuận, xác tàu trôi vô bờ. Mary, tôi cho cô hay: mỗi khi có một chiếc tàu muốn vào bờ, cần có ánh sáng. Cô thấy con thiêu thân sa vào ngọn nến và chết cháy chưa? Tàu cũng vậy, nếu ngọn lửa do tay kẻ gian đốt lên. Một vài lần, câu chuyện có thể trôi qua. Nhưng nhiều lần quá, người ta sẽ tìm ra nguyên nhân. Anh Joss khôn hồn thì chấm dứt hành động độc ác đó đi, nếu không...
- Anh có đi với Joss không?
- Tôi không điên. Tôi không nhúng tay vô máu, tôi không thấy ngọt mà uống thứ rượu... Có một điều tôi muốn nói với cô: tôi chưa hề giết người. Cô tin hay không tùy ý.
Jean bỗng nóng nảy, quất mạnh lên ngựa, như để trút cơn bực tức:
- Có bánh mì và phô-ma trong giỏ, không có sâu trong phô-ma đâu. Đói thì ăn đi! Có táo với lê nữa.
Mary không biết Jean giận thật hay vờ? Oan hay không?
Chỉ thấy Jean mím môi, mắt đỏ ngầu:
- Thì ra cô cho là tôi đồng lõa với Joss, nhận chìm tàu, giết người vô tội và lục xác họ, vét tiền? Cảnh tượng ngộ quá, há? Nếu vậy, sao cô lại đi với tôi?
Mary vui vẻ:
- Anh chưa hề cải chính mà! Và mắt anh trong sáng, y như vô tội...
Nàng nói, nhìn phía khác, không khí hết ngột ngạt, mà trở thành dễ chịu. Họ như là hai đứa trẻ thân nhau từ lâu.
Xe đến quốc lộ, trời u ám báo hiệu sắp mưa. Đồi núi chập chùng trong sương mù.
Mary chợt hỏi:
_ Jean, gần đây có nhà thờ không?
- Làm sao tôi biết được? Tôi có đến nhà thờ một lần trong đời: khi còn được ẵm ngửa mà. Tôi tiếc là không chỉ dẫn cô về việc nầy được. Trong nhà thờ người ta cất chén bằng vàng trong tủ khóa cẩn thận, hả Mary?
- Bộ tính ăn trộm sao, hỏi kỹ vậy, Jean? Phải chừa nhà Chúa ra chớ !
Cả hai cùng cười, vô tư như hai đứa trẻ.
- Mary ! Tôi có con ngỗng. Lại ăn Giáng Sinh với tôi, nghe? Nói cho ngay nó là của ăn trộm, nhưng không sao, thịt ngỗng là thịt ngỗng, phải không? Trại chủ Tuckett có nhiều ngỗng, ổng không hay tôi ăn cắp một con...
- Jean! Ngày mai tôi sẽ đi nhà thờ. Anh biết cha sở họ Altarnun là ai không?
- Không! Tôi chưa hề giao thiệp với mấy ổng. Họ là những người đặc biệt. Hồi còn nhỏ, tôi nghe ở North Hill có một cha sở cận thị nặng. Một bữa ông lấy lầm rượu, đáng lẽ cho bổn đạo uống rượu lễ, ổng lại cho uống rượu Cognac. Cả làng hay tin, kéo nhau đến xin rước lễ để được uống Cognac. Thấy bổn đạo đông quá, cha sở mừng lắm, sáng mắt lên, vô tòa giảng, giảng một bài dài ngoằng. Cha! Đó là một ngày đáng ghi nhớ: anh Matt bảo ảnh rước lễ tới hai lần...
Mary thở dài:
- Anh không thể nói chuyện gì đứng đắn sao? Anh không nể ai hết hả?
- Sao không? Tôi nể cái dạ dày tôi: nó đang đòi ăn. Dưới chân ta có cái hộp bánh. Nếu cô ăn chay thì có táo đó. Trong kinh thánh có nói tới táo mà !
Hai rưỡi, họ đến chợ. Cả hai cùng vui, Mary như lây sự vô tư của Jean. Nàng quên trách nhiệm, lo âu. Rời lữ quán, tuổi trẻ và can đảm của nàng hồi phục. Jean nhận thấy điều nầy, hài lòng lắm. Mary cười luôn. Quanh nàng, tiếng động, sự rộn rịp của phố xá, không khí Giáng Sinh bao phủ. Đường chật những người diện bảnh bao đi lại, các cửa hàng bày biện rực rỡ vui mắt.
Xe ngựa, xe hơi đậu đầy phố, ai cũng náo nức, màu sắc sống động. Một bà đội thúng táo bóng ngời, đỏ thẫm, mặc áo xanh. Khung cảnh như nhắc Mary kỷ niệm cũ. Giữa đám đông, một cậu bé bưng khay bánh mì thịt nóng hôi hổi rao mời lảnh lót. Một bà mặc áo nhung sang trọng bước xuống xe vào quán “Con Nai Trắng” theo sau một gã đàn ông, nom huênh hoang như con công!
Đồng hoang khuất xa, xa tít. Thành phố nằm dưới ngọn đồi. Có lâu đài to như trong chuyện cổ tích, những khóm cây, cánh đồng trải dài. Khung cảnh sống động quá, rộn rã tiếng cười đùa, chào hàng. Mặt trời cũng chường mặt ra góp vui với ngày lễ!
Mary lấy khăn Jean tặng ra cột tóc. Họ cột ngựa một chỗ rồi len lỏi giữa đám đông dạo phố. Tay Jean dắt hai con ngựa, nét mặt tự tin, Mary đi sau, đến chợ, chỗ dành cho gia súc, chỗ tụ họp của nông dân, trại chủ, những người có địa vị ở Devon. Tim Mary đập mạnh: nàng sợ người ta nhìn ra ngựa ăn trộm. Jean tỉnh bơ, quay sang nháy mắt với cô. Anh vẹt đám đông, chào một người trong bọn buôn bán ngựa rồi đến ngồi cạnh họ, đoạn châm thuốc hút. Mary đứng ngoài.
Một lát, có người đàn ông ăn vận chững chạc rẽ đám đông đến gần bầy ngựa. Lại một gã mắt ti hí mặc áo đen đến bên ông ra, thúc vào hông ông ta chỉ chỏ thì thào. Họ nhìn con ngựa của ông Bassat thật lâu, một người vuốt ve con ngựa.
- Ngựa nầy không có vẻ ngựa nuôi ở đồng hoang. Anh mua ở đâu?
- Nó đẻ ở Callington, bốn tuổi rồi đó. Jim Bray bán cho tôi ảnh nói nó thuộc giống Ái nhĩ lan và nổi tiếng ở trường đua, nhưng tôi nói trước; tôi không bán rẻ đâu.
Jean nói và lại hút thuốc, trong lúc hai người lạ xem xét kỹ con vật. Mary cảm thấy tim như ngừng đập. Gã mắt ti hí hỏi:
- Da nó có bệnh không? Sao thấy da nó cứng quá? Anh có cải trang cho nó ư?
- Giỡn chớ! Con kia thì có đau sơ kỳ hè, con nầy nguyên si mà! Tôi định nuôi sang xuân mà tốn kém quá. Nó thuộc giống cừ đó, nghe!
- Cỡ bao nhiêu? 15 livres được không?
- Đúng 18 guinees không bớt nửa xu!
Gã mắt lươn:
- Tôi không vừa ý mấy. Dấu riêng biệt của nó đâu?
Jean chỉ một khe nhỏ ở tai ngựa, rồi gặng:
- Ông có vẻ rành về ngựa quá, hả?
- Không rành lắm... Nhưng nầy, may cho anh: Jim Bray đã đi xa rồi. Tôi biết ngựa nầy! (Với ông bạn Thôi! Stevens, tôi khuyên anh đừng đụng tới nó, có chuyện đa!
- Trông nó tốt mã quá mà! Sao anh cẩn thận quá Will? Ai nuôi thì cũng vậy, có sao?
Gà mắt lươn rỉ tai bạn một thôi, ông ta bỗng nhớn nhác, lắc đầu rồi nói to:
- Vậy thì thôi. Tôi không muốn phiền phức. (Với Jean Anh giữ ngựa lại, bạn tôi không vừa lòng, giá cao quá !
Mary thở phào, nhẹ cả người. Ngựa hoang coi bộ dễ bán hơn. Xung quanh đó, người ta bán với giá 2, 3 livres một con. Đến 4 giờ, Jean cũng bán được con ngựa kia. Ngựa đen quí không được ai chiếu cố.
Chiều xuống dần, đèn đường bật sáng. Mary tính quay lại xe ngồi nghỉ thì chợt nghe một tiếng cười nịnh bợ vang lên và có tiếng đàn bà nói gì đó. Nàng quay sang, thấy người mặc áo nhung xuống xe:
- Ồ! Anh thấy con ngựa xinh đẹp kia không? Dáng bộ nó giống con Beauty quá, hả? Tiếc cái nó đen kịt... James! Anh xem...
Gã đàn ông tra kính lên mắt, cất giọng rè rè:
- Tôi không mấy rõ về ngựa. Ngựa chị mất màu xám... con nầy đen mượt. Chị ưa?
- Sao không? Mua làm quà cho lũ nhỏ. Từ hôm mất con Beauty, tụi nó cứ phá rầy ba chúng hoài. James! Hỏi giá dùm tôi, đi!
Gã đàn ông vênh váo lại gần:
- Anh kia, có bán con ngựa đen không?
Jean lắc đầu:
- Tôi hứa để cho người bạn, tôi không thể nuốt lời. Mà ông cỡi nó gì được? Ngựa nầy dành cho con nít mà.
- Vậy hả? Thôi! Chị Maria, ngựa nầy không bán.
- Uổng không? Tôi mến nó quá đi ! Anh hỏi kỹ coi, tôi sẽ trả giá cao...
Gã đàn ông lại cất giọng rè rè:
- Nầy anh! Bà đây ưng con ngựa đó. Bà mất con ngựa quí, muốn thay vô. Thôi! Kệ bạn anh, cho chả đợi, rồi tìm con khác, lo gì. Bán cho bà đây đi ! Giá bao nhiêu?
- Bạn tôi trả 25 guinees. Nhưng tôi không bán cho ông đâu!
Người đàn bà chen vô liền:
- Tôi trả anh 30 livres. Tôi là bà Bassat đây. Tôi muốn mua con ngựa làm quà cho con tôi dịp nầy. Bằng lòng không? Tôi thích nó quá...
Jean hất mũ, cúi đầu thật thấp:
- Xin cảm ơn bà, tôi hy vọng ông nhà và các cô cậu hài lòng, nó dễ cỡi lắm.
- Ồ! Chắc nhà tôi bằng lòng. Nom nó không bằng con Beauty đã mất, nhưng cũng khá xinh.
Bà giao tiền cho Jean rồi lại bên xe đang đợi, bảo tên đày tớ:
- Anh chạy về kêu Richards ra dắt con ngựa mới về. Đừng cho ông hay nghe. Tôi muốn ông ngạc nhiên...
Đợi bà Bassat và James đi khuất, Jean khều tay gã con trai đứng cạnh mình:
- Nầy, anh muốn có năm shillings không?
Gã con trai gật đầu, há miệng chờ. Jean nói tiếp trong khi đưa ra năm shillings:
- Giữ giùm con ngựa nầy và chờ đày tớ của bà kia ra, giao cho hắn. Vợ tôi sinh đôi và bị nguy hiểm. Tôi đợi không được. Chúc anh vui vẻ...
Jean biến mất trong một nhoáng, anh đi mau, tay đút túi quần. Mary kín đáo theo sau, mặt đỏ rần, mắt dán xuống đất, nàng phải dùng khăn quàng bụm miệng cho khỏi bật cười. Đến một nơi xa đám người, nàng dừng lại thở, Jean chờ nàng, mặt hí hửng.
- Jean! Anh đáng bị treo cổ: bán ngựa cho chính người mình đi ăn trộm! Quá, quá...
Jean cười ồ lên làm nàng cũng cười theo. Jean nắm tay cô:
- Nào! Vui vẻ chứ?
Mary gật đầu. Hai người dạo giữa không khí ấm áp hơi người. Jean mua tặng nàng một cái khăn đỏ chói và đôi khoen tai vàng. Đoạn kéo nàng đến giải khát và sau rốt, họ coi bói. Bà thầy bói già, da nhăn nheo khuyên Mary:
- Cô nên cẩn thận, coi chừng một người đàn ông tóc nâu.
Hai người cười ngất. Bà lại bảo Jean:
- Còn cậu, tay cậu sắp vấy máu. Một ngày kia, cậu sẽ giết người, giết một người.
Jean bảo cô gái:
- Thấy chưa? Tôi đã nói tôi chưa giết ai hết. Tôi vô tội mà!
Mary im lặng. Những hạt mưa nhỏ rơi trên mặt họ. Gió thổi mạnh lên, tung cả giấy, giây băng, làm các lều lung lay.
Chỉ giây lát, có mấy chiếc lều ngã sập. Táo, cam, lăn lông lốc, mưa nặng hạt. Mọi người thi nhau tìm chỗ núp, gọi nhau ơi ới. Jean kéo tay Mary vào một mái hiên, tay quàng vai nàng, âu yếm.
Mây đen kịt khắp trời, đường xá vắng tanh, mưa tạt vào mái hiên. Jean đứng quay lưng ra che mưa cho bạn. Anh tháo khăn cột tóc Mary, vuốt tóc nàng, rồi nâng mặt Mary lên, nhìn vào mắt nàng và cúi hôn nàng. Mary choáng váng một giây, nhưng nàng lại hất tay anh ra:
- Chúng ta trở về!
- Cô đòi về? Trên cái xe không mui trong lúc trời đất thế nầy? Lên dốc, gió sẽ lật xe mất, ở lại đi!
- Đừng nói chơi kiểu đó. Anh đi lấy xe đi. Tôi đợi anh đây !
- Đừng làm bộ. Về bây giờ sẽ ướt như chuột. Mary ! Cô cũng yêu tôi như tôi yêu cô, phải không?
- Anh nói vậy vì tôi là người giúp việc cho lữ quán Giao Mai...
- Bỏ lữ quán khốn nạn đó đi! Tôi yêu cô là yêu cô. Tôi không có bộ vó phong lưu, nhưng tôi yêu cô! Vậy không đủ ư? Ta cần có nhau ! Đừng giả vờ cứng rắn nữa... Yêu nhau là đủ...
- Đối với vài người thì đủ, nhưng tôi, rất tiếc tôi không thể...
- Hãy ở lại đêm nay với anh, Mary!
- Không! Không và không ! Thà tôi chịu ướt trên xe!
- Tim cô như đá rắn. Rồi cô sẽ hối cho mà xem. Tôi sẽ mua cho cô cái nhẫn, nếu cô muốn...
- Tôi chỉ muốn về. Nếu quả anh yêu tôi, hãy cho tôi về.
- Đành vậy, chờ đó, tôi đi lấy xe.
Jean cúi đầu, chạy ra giữa mưa, mất hút sau dãy phố lầu. Mary nép sát vào mái hiên. Nàng biết trở về lúc nầy là điên: 11 dặm với chiếc xe trần, giữa gió mưa. Nhưng ở lại với Jean ư? Nàng không thể, tuy nàng cảm động nghĩ đến anh... Có thể nàng yêu Jean! Nhưng nàng không điên rồ đến thế. Nàng không muốn lệ thuộc Jean. Nàng biết tự trọng...
Nàng nóng ruột, không đứng đợi nữa, men dọc theo mái hiên tìm Jean. Nàng đến chỗ gửi xe, qua khe cửa, Mary thấy trống trơn. Nàng gõ bừa vào nhà bên cạnh. Có tiếng mở khóa canh cách rồi tiếng càu nhàu:
- Hỏi gì vào giờ nầy? Không có gì cho ăn đâu.
- Tôi không xin ăn, tôi tìm một người bạn, anh ta gởi xe đây.
- Xin lỗi cô, anh ta có đến và đi hơn 20 phút rồi, có vẻ vội lắm. Hình như đi với tên bồi quán “Nai Trắng” thì phải. Cô nên lại đó hỏi coi.
- Cảm ơn ông.
Nàng nói và hấp tấp đến quán “Nai Trắng”. Bụng thắc mắc, không biết Jean đến đó làm gì? Có thể ông ta lầm. Nhưng nàng còn biết đi đâu, cứ đến đó xem sao.
Bên trong đèn sáng rỡ, chả thấy xe ngựa của Jean đâu. Hay Jean bỏ về một mình? Không có lý nào. Nàng đẩy cửa bước vào, nhiều tiếng cười rộ khi thấy nàng. Tên bồi chạy đón, Mary nói liền:
- Tôi tìm Jean Merlyn. Xin ông hỏi dùm cho.
Tên bồi gật đầu, bước vào trong, Mary bỗng lạnh người khi thấy gã mắt lươn và ông bạn hắn. Nàng linh cảm chuyện bất lành. Tên bồi trở ra, dấm dẳn:
- Chiều nay đông khách quá, tôi không thể biết ai là Jean Merlyn.
Mary không kịp có thái độ gì thì tên mắt lươn tiến lại:
- Nếu cô định tìm tên bán ngựa thì tôi biết, (gã cười khả ố) cách đây 10 phút nó bị buộc lên xe. Cô biết chuyện ngựa đen, há? Ngựa quí mà!
Mọi người cười vang. Mary bình tĩnh hỏi:
- Ông biết họ đi đâu không?
- Rất tiếc, mà gã cũng không nhắn gì cả. Tối rồi, quên tên đểu đi, cô ạ ! Vô đây, ăn réveillon với tôi cho vui!
Mary quày quả đi ra. Trận cười khả ố như đuổi theo nàng. Thế là hết! Không biết tên trộm ngựa có bị treo cổ như sát nhân không? Tội nghiệp Jean quá!
Thành phố tối om, buồn bã. Mary bước tràn không kể gió mưa, lòng tan nát...
Bỗng một cái xe lên dốc, ngược chiều với nàng, trông như con nhện khổng lồ. Như kẻ chết đuối gặp thanh ván trôi gần, Mary bám lấy. Cô chạy theo, kêu to:
- Ông đi đâu? Có chở ai không?
Phu xe lắc đầu, giục ngựa nhanh hơn, nhung đột nhiên, một bàn tay rắn chắc đặt lên vai cô gái:
- Mary Yellan! Cô đi đâu trong đêm Giáng Sinh một mình thế nầy?
Giọng nói êm ái, quen thuộc, gương mặt trắng, mái tóc trắng, cặp mắt thủy tinh của linh mục phó xứ Altarnun hiện ra.
Chúa ơi! Đó không phải phép mầu của Chúa sao?
Trong xe tranh tối, tranh sáng, cha phó với nét mặt thanh tú, mũi hơi quặp như mỏ chim, môi mỏng và mím chặt. Giọng êm ru:
- Lần nữa, cô gặp tôi, ướt như chuột. Cởi áo choàng ra và cả vớ nữa, trong xe không gió, Mary ạ ! Lấy khăn khoác vào cho ấm!
Mary bối rối làm theo lời cha Francis. Ông vẫn dịu dàng:
- Thế nào? Con đến đây làm chi?
Cũng như lần trước, Mary không thể dấu diếm ông điều gì. Nhưng nàng không dám nói đến tên Jean, làm y như đó chỉ là một người lạ. Đợi nàng nói xong, linh mục hỏi:
- Thế ra con cũng không đến nỗi cô đơn ở chỗ heo hút hoang vắng nầy nhỉ? Tên hắn là gì?
Mary cảm thấy mình bị chế giễu, nhưng khi nàng nhìn linh mục, nàng lại vững lòng. Nàng kể tên Jean cho ông biết và còn bạo dạn thêm rằng Jean không giống anh... Linh mục hơi cao mặt:
- Cô muốn nói là Jean không biết gì về tội ác anh hắn? Hắn chỉ ăn trộm ngựa thôi, phải không?
Mary nài nỉ:
- Thưa cha, cha có nói với con là cha quen ông Bassat xin cha giúp anh ấy, ảnh còn trẻ... có thể làm lại cuộc đời.
Sự im lặng của cha phó làm Mary xấu hổ thêm. Chắc ông cho nàng là đứa mất nết hay đứa ngốc?
- Mary! Cha không quen thân với ông tòa. Gặp nhau chào hỏi qua loa thôi. Vả lại, không chắc ông ấy tha tội trộm ngựa của Jean vì nể cha đâu.
Mary im lặng nghe. Mưa vẫn rơi, gió càng dữ bên ngoài. Giọng linh mục ôn tồn:
- Cô còn trẻ, hãy quên đi! Một cô gái không nên quan tâm nhiều đến một chàng trai gặp gỡ đôi lần và nụ hôn đầu tiên cũng không là một kỷ niệm khó phai. Nín đi!
Mary ngạc nhiên: linh mục không hề nhắc đến Chúa, đến một lời cầu nguyện như các tu sĩ khác. Và nàng bỗng kinh hoảng nhớ ra rằng nàng quên phắt Joss Merlyn với những giờ khắc nặng nề trong lữ quán.
- Thưa cha, cha có nghe đến chuyện đắm tàu không?
Rồi, không gìn giữ nữa, nàng thao thao kể hết những điều Joss nói với nàng. Giọng linh mục hết dịu dàng:
- Vậy ra khi say, tên Joss nói toạc hết?
Mary ngước nhìn linh mục, khác với giọng nói, mắt ông bình tĩnh, lạnh lùng.
Mary nức nở:
- Thưa cha, vâng! Ghê gớm quá. Chính vì vậy mà con mất hết khôn ngoan, bình tĩnh, hết tin tưởng, con đã hành động như người mất trí khi cùng Jean đi Lauceston!...
Gió tạt vào xe những hạt cát to gần bằng hạt sỏi, gió hơi có mùi mặn của bể.
Cha phó nói:
- Gần tới ngã năm rồi. Tôi sẽ xuống xe đi bộ về. Còn cô, cứ ngồi yên, xe đưa cô đến lữ quán. Quên, bí mật của cô chỉ mình tôi biết hay Jean cũng được nghe cô kể cho nghe nữa?
- Thưa cha, Jean hình như cũng biết, nhưng anh em ảnh không hợp nhau.
- Vậy thì con yên tâm. Tôi vừa đi họp về. Đại diện của Hoàng Đế quyết định ngăn các vụ đắm tàu bằng cách cho tuần phòng bờ biển kỹ càng, từ nay Joss sẽ chết mòn vì rượu, cô sẽ yên giấc, và đợi người yêu được tha về.
Ông sửa soạn xuống xe. Mary toan xin được theo ông nhưng không kịp nữa.
Chương 8
Còn ba dặm nữa mới về đến lữ quán. Nếu linh mục nói đúng thì còn gì vui hơn! Kỷ nguyên của bọn đánh đắm tàu chấm dứt. Họ sẽ biến mất theo bóng đêm. Tàu bè đến Anh quốc sẽ không sợ hãi gì nữa. Người ta yên lòng mà du lịch. Mọi người sẽ quên những chuyện kinh hoàng. Trên đồng hoang nông dân sẽ đến trồng trọt, khai khẩn, chả ai sợ lữ quán Giao Mai... Nàng và Jean sẽ...
Bỗng Mary giật mình: qua cửa sổ xe nàng thấy có tia lửa xẹt và hình như cả tiếng súng, tiếng hú vang xa. Rồi tiếng chân và tiếng người quát tháo. Nàng nghiêng người, chồm ra nhìn, mưa tạt vào mặt nàng, bác phu xe rú lên một tiếng, toan quay xe lại nhưng không kịp nữa. Đoàn người tiến đến sát xe, tên đi đầu có cầm đèn lồng, chúng nhảy tới chứ không phải đi. Đoàng một tiếng, bác phu xe gục tức thời; tiếng kêu cứu tắt nghẽn trong cổ họng. Xe chao qua, đảo lại dễ sợ.
Mũi súng còn bốc khói, Joss dí vào cháu vợ và khi nhận ra nàng, hắn gầm lên:
- A! Mầy trở về đó hở? Con chó cúp đuôi !
Cả bọn xúm lại nhìn nàng chỉ trỏ, cười vang. Mary lặng im. Joss tát nàng một cái:
- Mầy câm hả? Mầy đi đâu cả ngày?
Mary đưa tay đỡ, má nàng như bỏng. Lão bẻ quặt tay nàng ra sau và đẩy nàng. Mary hét:
- Chú không có quyền đụng tới tôi. Chú là kẻ sát nhân! Tôi đi tố cáo chú, nghe chưa? Tôi đến Lauceston...
Cả bọn giật mình, nhao lên, nhưng Joss quát:
- Tụi ngốc! Lui ra, nó đi sao nổi! Coi cặp giò nó kìa! Thôi, sửa soạn công chuyện. Để nó cho tao! Gió lên rồi đó. Đừng mất thì giờ. Harry! Lên xe ngay, xe nầy chở được 6 đứa lận!
Trong chớp mắt, cả bọn lên xe: Joss và bốn năm tên. Hắn đẩy mạnh Marry vô trong, giục ngựa chạy nhanh. Lữ quán Giao Mai sáng rỡ phía trước.
- Mầy định tố cáo tao, hử? Tao sẽ treo cổ mầy lên như con mèo... như... mà chưa đâu. Tao cho mầy thấy đã, rồi sẽ treo sau, không vội gì.
Lữ quán mất dạng, Mary bị bịt kín miệng ú ớ không ra tiếng. Không khí trong xe sặc sụa khói thuốc và rượu. Cả bọn nói chuyện ầm ĩ, thỉnh thoảng có tên nhìn xem Mary có xấu hổ, sợ hãi chi không? Nhưng nàng kiệt lực, rũ ra như đống giẻ rách.
Joss lấy cùi tay thúc vào bụng nàng làm nàng đau nhói. Mắt Mary nổ đom đóm, nàng chỉ ao ước được mê thiếp đi, mặc tất cả.
Bọn chúng rút cỗ bài ra trong lúc xe tiến trong bóng đêm, tiến đến bờ biển.
Bỗng xe ngừng lại, gió lạnh và mặn thốc vào mặt Mary. Vắng hoe, chúng xuống xe mang theo cả đèn lồng. Mary đau ê cả toàn thân.
Có tiếng rì rào quen thuộc, tiếng sóng bể. Mary sợ quá đến rúm ró cả người. Nàng rùng mình: Joss và đồng lõa nấp đâu đó, đợi nước lên. Giá nghe tiếng họ hò hét, nàng lại đỡ sợ hơn.
Cửa khóa, nhưng biết đâu nàng không thoát ra được bằng cửa sổ? Mạng sống nàng có nghĩa gì? Nàng không thể để mặc chúng gây thêm tội ác. Có thể nàng chưa làm được đã bị treo cổ, nhưng Mary không cần. Nàng thấy phải hành động.
Mary cố chui qua cửa sổ, vai và lưng ê ẩm nên thật khó khăn. Mui xe lại ướt, trơn tuột khó bám víu. Tay, hông cô gái bị mảnh kính ở cửa sổ cứa đứt... Nàng mất thăng bằng, ngã nhào xuống đất. Mary nằm một chút cho khoẻ rồi mò mẫm đứng lên. Máu ri rỉ chảy sau lưng, may không nhiều lắm. Nàng ngược dốc bò lên. Tiếng sóng bây giờ tăng theo gió, biển động mạnh gần đâu đây. Bây giờ nàng đứng thẳng bước mau. Quen với bóng tối, một chốc sau, Mary thấy chúng tụ tập dưới chân một mỏm đá. Im lặng một cách đáng sợ. Mary không dám tiến tới nữa, sợ lộ mất.
Bọt sóng tung vào các mỏm đá, trắng xóa giữa đêm đen mịt. Sương mù tan dần.
Bờ bể cao và dốc lên, đá nhô ra nhiều hơn mặt nước rộng như vô tận. Phía tay phải, xa xa, chỗ dốc đá nguy hiểm nhất, Mary thấy một đốm sáng. Ban đầu, cô ngỡ là một ngôi sao, nhưng sau, cô biết không phải: sao đâu có lung linh theo cơn gió bão? Y như một con mắt trắng trong đêm tối, đốm sáng nhảy múa theo cơn gió.
Bọn người họp nhau trên bãi nhìn ánh sáng rồi lại nhìn bóng đen ngoài khơi. Cô gái chợt hiểu: ánh sáng kia tưởng như một chỉ dẫn, hóa ra là hình ảnh của tử thần do Joss và đồng lõa đặt ra để lừa tàu đến. Có người canh giữ cho ánh sáng khỏi tắt thì phải, vì Mary thấy có bóng đen qua lại trước đó, rồi thình lình, hắn lấy tay làm loa gọi đồng bọn, cả bọn xôn xao lên. Sự im lặng bị phá tan.
Trông chúng nhốn nháo, không như lúc đầu, cho đến khi Joss ra hiệu bảo im, cả bọn lại tuân răm rắp. Mary nhận ra Joss nhờ đôi vai rộng và những bước chân sãi dài trên bãi.
Một lát sau, cả bọn đứng im chờ đợi, sắp hàng trên bãi như một bầy quạ. Mary nhìn theo hướng họ. Một ánh sáng khác vừa hiện ra, không nhảy nhót, lung linh, từ từ tiến lên rồi biến mất sau cồn đá, một chốc lại hiện ra. Cứ thế nó tiến lại ánh sáng đầu tiên như được mời gọi, như bị cuốn hút. Mary đã phân biệt đuợc sườn tàu và các cột buồm như những ngón tay chỉ lên trời. Biển đầy sóng trắng, đèn mắc trên cột buồm càng lúc càng gần ánh sáng trên cồn, giống như con thiêu thân ngu dại xáp vào lửa đỏ.
Mary không thể im được nữa. Nàng đứng lên, liều lĩnh chạy càn xuống bãi, vừa kêu khóc, hai tay giơ khỏi đầu... nhưng gió và sóng át lời nàng. Lại có ai xô nàng quỵ xuống.
Bọn bất lương xúm lại, đè cứng và trói nghiến cô gái lại, dùng chân đá vào nàng, dùng giẻ nhét vào miệng nàng. Hai tay bị bẻ quặt ra sau, cô gái can đảm đáng thương giống như con lợn sắp mang vào lò sát sinh.
Mary vẫn nhìn bóng đen to lớn của con tàu tiến tới, trong lúc tiếng hò hét man rợ của bọn sát nhân át cả tiếng sóng vỗ vào gành đá. Có tiếng gãy răng rắc, đổ ào ào, tiếng ầm ĩ của khối to lớn va vào cồn đá, tàu nghiêng lại như một con rùa khổng lồ bị lật, các cột buồm ngả nghiêng, gãy gập. Phía mạn tàu nghiêng chổng lên trời, Mary phân biệt được vô số chấm đen bám vào, nhưng khi sóng dậy lên, những chấm đen rơi lả tả, mạn tàu tách đôi, bọt sóng trắng xóa tan, quét sạch...
Cô gái kinh hoàng úp mặt xuống cát, thôi nhìn. Nàng đau hơn bị đánh đập, hành hạ, hơn cả khi ngồi nhìn mẹ đợi tử thần.
Bọn đàn ông ùa xuống bãi, vừa chạy vừa hò hét, nước tận thắt lưng chúng. Chúng bập bềnh giữa những mảnh ván gãy nát, rồi lội ra sâu hơn. Chúng bơi theo những vật bị nước cuốn trôi trên tàu. Có tên cởi hết áo quần cho đỡ vướng. Chúng tranh nhau các vật tìm được. Một tên đốt lửa bên mỏm đá, ngọn lửa tỏa ánh sáng vàng vọt ma quái dưới bầu trời đen kịt, lấm tấm mưa.
Khi các xác chết tấp vào bờ, bọn chúng xúm lại lục lọi: tháo từng cái nhẫn trong các ngón tay sưng vù, lột những vòng vàng, đồng hồ, nữ trang, tóm lại tất cả những gì đáng giá. Các túi áo, quần được xét kỹ. Cuối cùng, chúng bỏ xác chết nằm lật úp, hay ngửa giữa bọt sóng, bập bềnh cùng với những mảnh gỗ...
Tuy kinh hãi, Mary lại ngẩng nhìn, nàng thấy chúng làm việc lộn xộn: mạnh ai vét được gì cứ vét cho riêng mình. Joss ướt sũng, mình trần, nổi bật giữa bọn thủ hạ.
Thủy triều bắt đầu rút. Không khí lạnh rợi, ánh sáng thôi nhảy nhót, tàn dần. Nước trở màu xám cũng như bầu trời. Chúng vẫn hăng hái trong lúc bóng tối nhường cho ánh sáng, Joss kêu to chỉ cho đồng lõa thấy khung trời ngả sang màu chì. Ai nấy đều tiếc rẻ những đám đồ đạc trôi lềnh bềnh trên nước. Chúng như không để ý đến thời gian qua mau. Chúng giật mình, vội vã hơn, sợ bình minh đến, bóng tối rút lui không che chở cho chúng nữa.
Joss mở trói cho cô gái. Lão chửi thề ầm ĩ khi thấy cô gái không đứng nổi, lão vác Mary lên vai như một gói hàng, các vết thương làm nàng đau đớn thêm.
Bọn cướp hối hả chất đồ đạc lên xe, vội vã cho đến nỗi sơ ý, bánh xe lọt vào hố và gãy bánh đánh rắc một tiếng. Chúng càng rối loạn thêm, cả bọn tranh nhau cái xe còn lại. Một tên tuân lệnh Joss đốt chiếc xe gãy để phi tang.
Lúc bấy giờ, tên nào có súng thì có lợi thế hơn hết. Joss cùng tên thủ hạ trung thành bắn bừa vào các tên khác đang xông tới để leo lên xe. Phát thứ nhất bị hụt, Joss bị bọn kia trả đũa bằng những viên đá nhọn, một viên trúng mắt Joss, phun máu, Joss gầm lên, bắn bồi hai phát tiếp, một tên trúng đạn, rú lên, ngã lăn xuống bùn. Harry bắn trúng cổ họng tên nữa, máu phun có vòi. Thấy hai bạn bị ngã, cả mấy tên còn lại sợ hãi rút lui, mạnh ai nấy chạy.
Joss và Harry gấp rút chất đồ đạc lên xe, cạnh Mary. Còn rất nhiều món có giá trị dưới bãi. Tuy vậy, chúng không dám xuống lấy vì sợ lộ.
Không biết hai tên bị bắn chết hay sống, Harry lôi chúng lại, vứt vào ngọn lửa thiêu xe. Merlyn lặng im cột ngựa rồi ra roi cho ngựa chạy.
Nằm trong xe, cô gái nghe tiếng sóng biển xa dần, gió cũng lặng. Cỏ ven đường không lay động. Trời xám sáng, mưa lất phất tạt vào mặt Mary. Xe chạy đều trên đường vắng. Bỗng một hồi chuông vọng lại ròn rã nhắc Mary nhớ ra: Hôm nay lễ Giáng Sinh!